Thứ Hai, 23 tháng 5, 2016

LƯỢC SỬ TRIỀU ĐẠI NHÀ NGUYỄN


I- CHÚA TIÊN NGUYỄN HOÀNG
     Đoan Quận công Nguyễn Hoàng (1600 - 1613). Truy tôn là Thái tổ Gia dụ Hoàng đế, đương thời gọi là Chúa Tiên.
     Ông Nguyễn Hoàng là con thứ hai của ông Nguyễn Kim, vào trấn đất Thuận Hóa và Quảng Nam lập ra nghiệp Chúa Nguyễn. Lấy đất của Chiêm Thành lập ra phủ Phú Yên. Mất năm Quí Sửu (1613), thọ 89 tuổi.
HỌ NGUYỄN XƯNG CHÚA Ở MIỀN NAM
     Ông Nguyễn Kim khởi nghĩa giúp nhà Lê đánh nhà Mạc lấy được đất Thanh- Nghệ rồi đem quân ra đánh Sơn Nam bị hàng tướng nhà Mạc là Dương Chấp Nhất đánh thuốc độc chết, binh quyền giao lại cho con rể là Trịnh Kiểm. Ông Nguyễn Kim có hai người con là Nguyễn Uông và Nguyễn Hoàng làm tướng lập được nhiều công. Người anh là Nguyễn Uông được phong là Lang quận công, người em là Nguyễn Hoàng được phong là Thái úy Đoan quận công. Trịnh Kiểm sợ họ Nguyễn tranh mất quyền, bèn kiếm chuyện giết Nguyễn Uông. Nguyễn Hoàng sợ Trịnh Kiểm có ý ám hại, cho người ra Hải Dương hỏi ông Nguyễn Bỉnh Khiêm. Ông ấy bảo rằng: "Hoành Sơn nhất đái, vạn đại dung thân", nghĩa là "Một dãy Hoành Sơn kia có thể yên thân được muôn đời".
     Nguyễn Hoàng nói với chị ruột là bà Ngọc Bảo(Vợ của Trịnh Kiểm) xin Trịnh Kiểm cho vào trấn phía Nam. Năm Mậu Ngọ (1558) đời vua An Tông, Trịnh Kiểm tâu Vua cho Nguyễn Hoàng vào trấn đất Thuận Hóa. Bấy giờ những người họ hàng ở huyện Tống Sơn cùng những quân lính ở đất Thanh- Nghệ nhiều người đưa cả vợ con theo. Nguyễn Hoàng vào đóng ở xã Ái Tử (sau gọi là kho Cây Khế), thuộc huyện Đăng Xương, tỉnh Quảng Trị. Nguyễn Hoàng là người khôn ngoan lại có lòng nhân đức, thu dùng hào kiệt, yên ủi nhân dân nên lòng người ai cũng mến phục.
     Đến năm Kỷ Tỵ (1569) ông ra chầu vua ở An Tràng. Qua năm sau Trịnh Kiểm gọi quan tổng binh ở Quảng Nam là Nguyễn Bá Quýnh về giữ đất Nghệ An, cho ông vào trấn cả đất Thuận Hóa và Quảng Nam.
     Năm Nhâm Thân(1572) Trịnh Kiểm mất, con là Trịnh Cối và Trịnh Tùng đánh nhau, nhà Mạc đem quân vào đánh Thanh Hóa, sai tướng là Lập Bạo đem quân và 60 chiếc thuyền theo đường biển kéo vào đóng ở làng Hồ Xá và làng Lạng Uyển (thuộc huyện Minh Linh) để đánh Nguyễn Hoàng. Ông sai một người con gái đẹp là Ngô thị giả làm cách đưa vàng bạc sang nói với Lập Bạo xin cầu hòa. Lập Bạo mừng rỡ, không cảnh giác, bị quân họ Nguyễn đánh lén, bắt được giết đi và đánh tan quân nhà Mạc.
     Năm Quí Tị (1593) Trịnh Tùng lấy được thành Thăng Long, bắt Mạc Mậu Hợp, nhưng đảng nhà Mạc còn nhiều, phải đánh dẹp nhiều nơi, Nguyễn Hoàng đưa quân ra Đông Đô, ở lại 8 năm giúp Trịnh Tùng đánh họ Mạc, lập được nhiều công to. Trịnh Tùng vẫn có ý ghen ghét không muốn cho ngài về Thuận Hóa, ngài cũng không có lý do gì về được. Năm Canh Tý (1600) các quan nhiều người không phục họ Trịnh; các ông Phan Ngạn, Ngô Đình Hàm, Bùi Văn Khuê khởi binh chống lại họ Trịnh ở cửa Đại An (Nam Định), Nguyễn Hoàng đem tướng sĩ giả vờ nói đi đánh giặc, rồi theo đường biển về Thuận Hóa.
     Nguyễn Hoàng về Thuận Hóa nhưng sợ họ Trịnh nghi ngờ, bèn đem người con gái là bà Ngọc Tú gả cho Trịnh Tráng là con trai Trịnh Tùng. Ngài ở giữ đất Thuận Hóa, cho người con thứ sáu vào trấn đất Quảng Nam dựng kho tàng, tích trữ lương thực.
     Nguyễn Hoàng về Thuận Hóa, bề ngoài tuy vẫn chưa ra mặt chống với họ Trịnh, nhưng bên trong thì hết sức phòng bị. Năm Quý Sửu (1613), khi Nguyễn Hoàng sắp mất, gọi người con thứ 6 là Nguyễn Phúc Nguyên vào dặn rằng: "Đất Thuận, Quảng này bên bắc thì có núi Hoành Sơn, sông Linh Giang, bên nam thì có núi Hải Vân và núi Bi Sơn thật là một nơi trời để cho người anh hùng dụng võ. Vậy ta phải thương yêu nhân dân, luyện tập quân sĩ để gây dựng cơ nghiệp muôn đời." Xem lời ấy thì biết họ Nguyễn đã có ý muốn độc lập để chống với họ Trịnh.
II- CHÚA SÃI NGUYỄN PHÚC NGUYÊN
     Thụy Quận công Nguyễn Phúc Nguyên (1613 - 1635). Truy tôn là Hi Tông Hiến văn Hoàng đế, còn gọi là chúa Sãi. Ngài là con thứ 6 của Chúa Nguyễn Hoàng, cải họ là Nguyễn Phúc. Ông Nguyễn Phúc Nguyên chống với họ Trịnh ở Quảng Bình. Mất năm Ất Hợi (1635), thọ 73 tuổi.
     Khi Trịnh Tùng mất, chúa Sãi Nguyễn Phúc Nguyên bảo các quan rằng: "Ta muốn nhân dịp này ra đánh họ Trịnh, nhưng hiềm vì công việc chưa xong, vậy thì hãy sai người ra phúng điếu, trước là cho phải cái nghĩa hôn nhân với nhau, sau là nhân thể xem tình ý ngoài Bắc thế nào."
     Bấy giờ ở miền Nam có những người tôi giỏi giúp rập như các ông Nguyễn Hữu Dật, Đào Duy Từ, Nguyễn Hữu Tiến đều là người có tài trí.
     Nguyễn Hữu Dật người làng Gia Miêu, huyện Tống Sơn, tỉnh Thanh Hóa, học rộng, tài cao lại có tài hùng biện, đánh giặc giỏi, thật là một bậc văn võ kiêm toàn.
     Đào Duy Từ người làng Hoa Trai, huyện Ngọc Sơn, phủ Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa. Ông là con nhà xướng hát nên không được đi thi, ông phẫn chí vào miền Nam tìm đường lập công nhưng chưa gặp được người tiến cử bèn vào ở chăn trâu cho nhà phú gia ở làng Tùng Châu, phủ Hoài Nhân (Bình Định). Ông làm bài "Ngọa Long Cương" để tự ví mình với ông Gia Cát Lượng. Sau có quan Khâm Lý là Trần Đức Hòa biết Duy Từ là người có tài, đem về nuôi và gả con gái cho, rồi đưa dâng chúa Sãi. Chúa dùng làm Nội tán, phong làm Lộc Khê Hầu.
     Nguyễn Hữu Tiến người làng Vân Trai, huyện Ngọc Sơn, Thanh Hóa, võ nghệ tinh thông, dùng binh rất có kỷ luật, thật là một người làm tướng có tài. Những người ấy giúp chúa Nguyễn, bày mưu định kế, luyện tập quân lính, xây đồn đắp lũy để chống với quân họ Trịnh.
     Khi những đồn lũy đã kiên cố, binh lương đã đủ, chúa Sãi mới ra mặt không thần phục họ Trịnh nữa và sai tướng ra chiếm giữ lấy đất Nam Bố Chính phía nam sông Linh Giang để chống giữ. Từ đó họ Trịnh và họ Nguyễn đánh nhau trong khoảng 45 năm ở đất Quảng Bình, Hà Tĩnh. 
     1. Đánh nhau Lần thứ nhất.
     Năm Đinh Mão (1627) nhà Minh bên Tàu chống nhau với nhà Thanh, họ Mạc ở Cao Bằng về hàng, Trịnh Tráng sai quan vào Thuận Hóa giả tiếng nhà Vua sai vào đòi tiền thuế. Chúa Sãi tiếp sứ nhưng không chịu nộp thuế. Trịnh Tráng lại sai sứ mang sắc vua Lê vào dụ chúa Sãi cho con ra chầu và lấy 30 con voi, 30 chiếc thuyền đưa đi cống nhà Minh. Chúa Sãi không chịu. Trịnh Tráng bèn quyết ý đánh họ Nguyễn, sai Nguyễn Khải và Nguyễn Danh Thế đem 5.000 quân vào đóng ở xã Hà Trung (Cầu Doanh), rồi đem đại binh, rước vua Lê đi đánh Chúa Nguyễn.
     Chúa Sãi sai cháu Nguyễn Phúc Vệ làm tiết chế cùng với Nguyễn Hữu Dật đem quân ra giữ các nơi hiểm yếu. Quân họ Trịnh đến đánh, chết hại rất nhiều. Nguyễn Hữu Dật lại dùng kế, sai người phao tin ở ngoài Bắc có Trịnh Gia và Trịnh Nhạc sắp làm loạn. Trịnh Tráng nghe tin ấy sinh nghi, bèn rước Vua và rút quân về Bắc. 
     2. Đánh nhau Lần thứ hai.
     Năm Canh Ngọ (1630) chúa Sãi nghe lời Đào Duy Từ, sai người đem sắc dụ ra trả vua Lê, rồi sai tướng đánh lấy phía nam sông Linh Giang. Đến năm Quý Dậu (1633) nhân khi chúa Sãi có người con thứ ba tên là Ánh, trấn thủ đất Quảng Nam, có ý muốn tranh quyền, sai người đưa thư ra Thăng Long xin chúa Trịnh đem quân vào đánh, quân ông sẽ làm nội ứng. Ánh xin chúa Sãi cho ra trấn thủ đất Quảng Bình để tiện thực hiện mưu gian, nhưng chúa Sãi có lòng nghi ngờ không cho. Khi Trịnh Tráng được thư của ngươi Ánh, đem đại binh vào đóng ở cửa Nhật Lệ (cửa Đồng Hới). Chúa Nguyễn sai Nguyễn Văn Thắng và Nguyễn Hữu Dật đem quân ra chống giữ. Quân họ Trịnh đến đợi hơn 10 ngày, không thấy tin tức gì của ngươi Ánh, bèn lui quân để chờ. Quân lính đợi lâu thành ra lười biếng, quân họ Nguyễn mới ra đánh đuổi. Trịnh Tráng thấy sự không thành, rút quân về.
III- CHÚA THƯỢNG NGUYỄN PHÚC LAN
     Nhân Quận Công Nguyễn Phúc Lan (1635-1648). Truy tôn là Thần tông Hiếu chiêu Hoàng đế, đương thời gọi là chúa Thượng. Ông Nguyễn Phúc Lan là con thứ hai chúa Sãi, đánh nhau với họ Trịnh ở Quảng Bình. Ông Nguyễn Phúc Lan mất năm Mậu Tí (1648), thọ 48 tuổi. 
     3. Đánh nhau Lần thứ ba.
     Năm Ất Hợi (1635) Chúa Sãi là Nguyễn Phúc Nguyên mất, con là Nguyễn Phúc Lan lên nối nghiệp Chúa, gọi là Chúa Thượng. Ngươi Ánh ở Quảng Nam nghe tin Chúa Sãi mất, anh lên nối nghiệp, bèn phát binh làm phản. Bấy giờ có Nguyễn Phúc Khê giúp Chúa Thượng, sai quân vào đánh bắt được ngươi Ánh, lấy nghĩa "Anh em là tình riêng, phép nước là nghĩa lớn" đem giết đi.
     Trịnh Tráng thấy anh em họ Nguyễn tranh nhau, sai tướng vào đánh đất Nam Bố Chính, giết được tướng họ Nguyễn là Bùi Công Thắng rồi đóng ở cửa Nhật Lệ. Năm Quý Tị (1643) Trịnh Tráng đem đại binh và rước vua Lê vào đất Bắc Bố Chính, nhưng bấy giờ đang tiết tháng tư, khí trời nóng nực, quân sĩ đau ốm chết rất nhiều, Trịnh Tráng phải rút quân về Bắc. 
     4. Đánh nhau Lần thứ tư.
     Năm Mậu Tí (1648) Trịnh Tráng sai đô đốc Tiến Quận Công Lê Văn Hiểu đem quân thủy bộ vào đánh miền Nam; bộ binh đóng ở đất Nam Bố Chính, thủy quân vào đánh cửa Nhật Lệ. Hai cha con Trương Phúc Phấn cố sức giữ lũy Trường Dục, quân họ Trịnh đánh mãi không tiến lên được. Chúa Nguyễn sai con là Nguyễn Phúc Tần đem binh ra chống giữ với họ Trịnh, khi ra đến Quảng Bình, Nguyễn Phúc Tần hội các tướng bàn rằng: "Quân kia tuy nhiều, nhưng người đánh giỏi thì ít. Nếu đến đêm, ta cho voi xông vào rồi đem đại quân đến đánh là chắc phá được". Đoạn rồi, một mặt cho thủy quân đi phục sẳn ở sông Cẩm La để chặn đường quân Trịnh chạy về; một mặt sai Nguyễn Hữu Tiến đem 100 thớt voi đến canh năm xông vào trại quân Trịnh, quân bộ tiếp sau vào đánh phá. Quả nhiên quân Trịnh thua to chạy về Bắc, lại gặp quân thủy của họ Nguyễn đuổi đánh mãi đến sông Lam Giang mới thôi. Trận ấy quân họ Nguyễn bắt được mấy tướng và 3.000 quân của họ Trịnh. Trịnh Tráng thấy quân mình thua, sai Lê Văn Hiểu cùng Trần Ngọc Hậu lĩnh một vạn quân đóng ở Hà Trung, Lê Hữu Đức cùng Vũ Lương đóng ở Hoàng Sơn, Phạm Tất Toàn đóng ở Bắc Bố Chính để phòng giữ quân họ Nguyễn.
     Bấy giờ trong Nam Chúa Thượng mất, truyền lại cho con là Nguyễn Phúc Tần, gọi là chúa Hiền. Ở ngoài Bắc thì vua Chân Tông mất, không có con, Trịnh Tráng rước Thần Tông Thái Thượng hoàng về làm vua lần nữa.
     Họ Trịnh vào đánh họ Nguyễn đã mấy phen, càng đánh càng hao binh tổn tướng, thế mà vẫn không chịu thôi việc chiến tranh. Đến năm Ất Tị (1655) quân nhà Trịnh lại vào đánh Nam Bố Chính. Bấy giờ chúa Hiền mới quyết ý đem quân ra đánh họ Trịnh. 

IV- CHÚA HIỀN NGUYỄN PHÚC TẦN
     Dũng Quận Công Nguyễn Phúc Tần (1648-1687) Truy tôn là Thái Tông Hiếu Triết Hoàng đế, đương thời gọi là chúa Hiền. Ông Nguyễn Phúc Tần đánh nhau với họ Trịnh ở đất Nghệ An. Lấy đất Chiêm Thành lập ra phủ Ninh Hòa và phủ Diên Khánh (tức là đất Khánh Hòa bây giờ). Nguyễn Phúc Tần mất năm Đinh Mão (1687), thọ 68 tuổi. 
     5. Đánh nhau Lần thứ năm.
     Tháng tư năm Ất Tị (1655) chúa Hiền sai Thuận Nghĩa Hầu là Nguyễn Hữu Tiến, Chiêu Vũ Hầu là Nguyễn Hữu Dật đem quân qua sông Linh Giang đánh Bắc Bố Chính, tướng họ Trịnh là Phạm Tất Toàn về hàng. Quân nhà Nguyễn tiến đến Hoành Sơn, gặp quân của Lê Hữu Đức, đánh đuổi rồi thừa thắng đánh đồn Hà Trung, Lê Văn Hiểu chống không nổi, cùng Lê Hữu Đức rút quân về giữ An Trường (thành Nghệ An). Nguyễn Hữu Tiến đem binh đến đóng ở huyện Thạch Hà, Lê Văn Hiểu và Lê Hữu Đức sang đóng ở xã Đại Nại. Trịnh Tráng thấy Lê Văn Hiểu thất bại ở Hà Trung, cho triệu về kinh và sai Trịnh Trượng vào làm Thống lĩnh, kinh lược đất Nghệ An. Lê Văn Hiểu bị đạn ở chân, về đến nửa đường thì chết; còn bọn Lê Hữu Đức, Vũ Lương đều phải giáng chức cả. Trịnh Trượng tiến binh đến huyện Kỳ Hoa, thủy binh đóng ở cửa Kỳ La. Nguyễn Hữu Tiến thấy quân họ Trịnh tiến, rút quân về sông Linh Giang để nhử. Trịnh Trượng thấy quân Nguyễn bỏ về sợ có mưu kế không dám đuổi, đóng quân ở Lạc Xuyên, cho 500 người vào đóng ở đồn Hà Trung.
     Nguyễn Hữu Tiến thấy quân họ Trịnh không đuổi, bèn đem quân đến đánh Lạc Xuyên; còn Nguyễn Hữu Dật đem thủy binh ra đánh cửa Kỳ La, đuổi chiến thuyền của họ Trịnh về cửa Châu Nhai. Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật thừa thắng đánh chiếm đồn Lạc Xuyên. Binh tướng họ Trịnh phải chạy về An Tràng. Bấy giờ phía nam sông Lam Giang là huyện Kỳ Hoa, Thạch Hà, Thiên Lộc, Nghi Xuân, La Sơn, Hương Sơn, Thanh Chương...7 huyện đều thuộc về họ Nguyễn.
     Tin quân Trịnh thua ở Lạc Xuyên ra đến Thăng Long, Trịnh Tráng giáng Trịnh Trượng xuống làm đô đốc, rồi sai con là Trịnh Tạc vào Nghệ An làm Thống lĩnh để chống giữ với quân họ Nguyễn. Bọn Nguyễn Hữu Tiến thấy quân Trịnh Tạc lại tiến, liền lui quân về đóng ở Hà Trung. Bây giờ ở ngoài Bắc lắm việc, Trịnh Tráng phải gọi Trịnh Tạc về, để tướng là Đào Quang Nhiêu ở lại trấn thủ đất Nghệ An, đóng ở An Tràng, sai Thân Văn Quang, Mẫn Văn Liên đóng ở làng Tiếp Vũ (huyện Thiên Lộc), thủy quân đóng ở sông Khu Độc (huyện Nghi Xuân).
     Năm Bính Thân (1656) quân họ Nguyễn đánh đồn Tiếp Vũ, bọn Thân Văn Quang bỏ chạy, Nguyễn Hữu Tiến đem quân đến đóng ở sông Tam Chế. Nguyễn Hữu Dật tiến binh đến núi Hồng Lĩnh, gặp quân họ Trịnh đánh đuổi đến đất Mẫn Tường, gặp thủy binh của Vũ Văn Thiêm, đánh phá một trận, Văn Thiêm thua chạy. Quân họ Nguyễn thừa thắng tiến đến làng Minh Lương và làng Bình Lạng gặp quân của Đào Quang Nhiêu, hai bên đánh nhau một trận ác liệt. Đào Quang Nhiêu thua chạy về An Tràng, dâng biểu tạ tội và xin viện binh. Trịnh Tráng sai người con út là Ninh Quận Công Trịnh Toàn (tục gọi là ông Ninh) vào làm thống lĩnh trấn thủ đất Nghệ An.
     Trịnh Toàn vào Nghệ An, đốc quân tiến đến Thạch Hà, sai Đào Quang Nhiêu và Dương Hồ đem binh đến đóng ở làng Hương Bộc và làng Đại Nại, sai Lê Sĩ Hậu, Bùi Sĩ Lương đem thủy quân đến đóng ở Nam Giới, Vũ Văn Thiêm đóng ở Châu Nhau. Nguyễn Hữu Tiến sai Dương Trí, Tống Phúc Khang, Nguyễn Hữu Dật đem quân đến đánh Nam Giới, lấy được hơn 30 chiếc thuyền, rồi tràn xuống sông Lam Giang đánh Vũ Văn Thiêm ở Châu Nhai, Vũ Văn Thiêm phải bỏ thuyền mà chạy.
     Trịnh Toàn thấy các đạo thủy binh của mình đã thua, bèn rút về đóng ở bến Hoạt, bỗng nghe tin toán quân của Đào Quang Nhiêu bị vây ở Hương Bộc liền đem quân đến cứu, hai bên đánh nhau ở làng Đại Nại, quân họ Nguyễn chạy về Hà Trung. Trịnh Toàn và Đào Quang Nhiêu đem quân đuổi đến Tam Lộng, bị quân của Nguyễn Hữu Tiến và Nguyễn Hữu Dật đón đường đánh phá. Trịnh Toàn lại thua chạy về An Tràng. Trịnh Toàn từ khi vào trấn thủ đất Nghệ An, hậu đãi tướng sĩ, yêu mến quân dân, lòng người đều phục; nhưng chẳng được bao lâu, Trịnh Tráng mất, Trịnh Tạc lên thay, thấy em có nhiều người mến phục, lấy làm nghi kỵ, bèn cho con là Trịnh Căn vào cùng trấn đất Nghệ An, có ý giữ để cho khỏi biến loạn. Đoạn rồi cho người vào đòi Trịnh Toàn về kinh, trách sao không về chịu tang, bắt bỏ ngục giam chết. Binh quyền ở Nghệ An giao lại cho Trịnh Căn. Đến tháng sáu năm Đinh Sửu (1657) Trịnh Căn chia quân làm 3 đạo, sai Lê Hiến làm tướng trung quân, Hoàng Nghĩa Giao làm tướng tả quân, Trịnh Thế Công làm tướng hữu quân, sang sông Lam Giang tiến đánh tướng nhà Nguyễn là Tống Hữu Đại ở làng Nam Hoa (thuộc huyện Thanh Chương). Do có người báo trước, Nguyễn Hữu Tiến đã kịp phòng bị, khi quân Trịnh đến mắc kế phải thua, may nhờ có quân Trịnh Căn tiếp ứng nên mới rút về được.
     Từ đó quân hai bên cứ giữ nhau ở sông Lam Giang, thỉnh thoảng đánh nhau một trận, như tháng chạp năm Mậu Tuất (1658), đánh ở làng Tuần Lễ (huyện Hương Sơn), quân họ Nguyễn phải lùi; Tháng tám năm Canh Tí (1660) đánh ở Nghi Xuân, quân họ Trịnh thua bỏ thuyền mà chạy; Tháng 9 năm ấy khi quân họ Nguyễn đóng ở làng Hoa Viên (làng Xuân Viên bây giờ), Trịnh Căn định sang lấy núi Lận Sơn để giữ trận thế, sai Hoàng Nghĩa Giao và Phan Kiêm Toàn đem binh sang sông Lam Giang ở làng Âm Công, và sai Lê Hiến đi xuống phía Hội Thống rồi sang sông, chờ đến nửa đem thì hai đạo cùng tiến.
     Đạo quân của Đào Nghĩa Giao đi đến Lận Sơn bị quân của Nguyễn Hữu Dật đánh. Trịnh Căn đứng thị chiến trên núi Quyết Dũng (Bến Thủy), trông thấy quân mình bị vây nguy cấp, liền sai quân sang cứu và truyền cho thủy quân đến bờ sông mà bắn lên, quân họ Nguyễn phải lùi. Đạo quân của Lê Hiến và Mẫn Văn Liên sang đến làng Tả Ao gặp quân họ Nguyễn, hai bên đánh nhau to, Mẫn Văn Liên tử trận, nhưng quân họ Nguyễn phải bỏ Hoa Viên lui về đóng ở Nghi Xuân.
     Quân của Nguyễn Hữu Tiến đóng ở Nghi Xuân, Nguyễn Hữu Dật đóng ở Khu Đốc. Chúa Hiền cũng đem binh đến tiếp ứng, đóng ở làng Phù Lộ(thuộc huyện Bình Chính, Quảng Bình). Nguyễn Hữu Dật lẻn về ra mắt chúa Hiền, kể đầu đuôi mọi việc đánh lấy thế nào, chúa Hiền mừng lắm, cho Hữu Dật một thanh bảo kiếm bằng vàng và lại sai trở lại đánh giặc. Nguyễn Hữu Tiến biết việc ấy, không bằng lòng, nhân có những quân sĩ mới hàng ở đất Nghệ An, thường hay bỏ trốn, Hữu Tiến bèn hội chư tướng lại để bàn xem nên đánh hay là nên lui về. Mọi người đều muốn lui về, duy chỉ có Nguyễn Hữu Dật không chịu. Khi các tướng họ Nguyễn đang bàn bạc, thì có tin Trịnh Căn sai Lê Hiến đi men bờ bể đến làng Cương Gián, Hoàng Nghĩa Giao đến làng Lũng Trâu và làng Mãn Trưởng tiến đánh làng An Điền và làng Phù Lưu; quân họ Nguyễn thua. Được tin ấy Nguyễn Hữu Tiến quyết ý đem quân về, nhưng bề ngoài giả truyền lệnh cho các tướng đến tối 28 thì các đạo đều phải tiến sang đánh An Tràng, Nguyễn Hữu Dật đem binh đi hậu tiếp. Đoạn rồi, dặn riêng các tướng đến nữa đêm rút quân về Nam Bố Chính, không cho Nguyễn Hữu Dật biết. Nguyễn Hữu Dật sắm sửa đâu vào đấy, chờ mãi không có tin tức gì, đến khi cho người đi thám về mới biết quân mình đã rút về Nam rồi. Lúc ấy quân họ Trịnh đã sang sông tiến đánh đồn Khu Độc. Hữu Dật mới dùng kế nghi binh để cho quân Trịnh không dám tiến, rồi đem binh chạy về, đến Hoành Sơn mới gặp quân của Nguyễn Hữu Tiến. Bấy giờ quân Trịnh Căn vừa đuổi đến, hai bên đánh nhau một trận chết hại rất nhiều. Trịnh Căn lui về đóng ở Kỳ Hoa. Còn bên kia Nguyễn Hữu Tiến đóng ở Nhật Lệ. Nguyễn Hữu Dật đóng ở Đông Cao, giữ các chỗ hiểm yếu. Từ bấy giờ 7 huyện ở vùng sông Lam Giang lại thuộc về đất Bắc.
     Trịnh Căn thấy quân họ Nguyễn giữ gìn mọi nơi chắc chắn, liệu thế đánh không được, sai Đào Quang Nhiêu ở lại trấn thủ đất Nghệ An và kiêm lĩnh cả đất Bắc Bố Chính rồi về Thăng Long. 
     6. Đánh nhau Lần thứ sáu.
     Tháng 10 năm Tân Sửu (1661) Trịnh Tạc cử đại binh và đem vua Lê vào đánh chúa Nguyễn; sai Trịnh Căn làm thống lĩnh, Đào Quang Nhiêu làm Tổng suất, Lê Hiếu và Hoàng Nghĩa Giao làm Đốc suất, Lê Sĩ Triệt và Trịnh Tế làm Đốc thị, đem binh sang sông Linh Giang đóng ở làng Phúc Tự. Quan Trấn thủ Nam Bố Chính là Nguyễn Hữu Dật đóng ở làng Phúc Lộc chia quân đắp lũy, giữ vững mọi nơi, quân Trịnh đánh mãi mấy tháng không được. Đến tháng 3 năm Nhâm Dần (1662), quân mệt, lương hết, Trịnh Tạc phải thu quân và rước Vua về Bắc. Nguyễn Hữu Dật đem binh đuổi đánh đến sông Linh Giang mới thôi. Năm ấy Thần Tông về rồi đến tháng 9 thì mất. Trịnh Tạc lập Thái tử Duy Vũ lên làm vua tức là vua Huyền Tông. Huyền Tông làm vua được 8 năm thì mất. Trịnh Tạc lại lập Hoàng đệ là Duy Hội làm vua, tức là vua Gia Tông. 
     7. Đánh nhau Lần thứ bảy.
     Năm Tân Sửu (1661) quân họ Trịnh thua ở Bắc Bố Chính, Trịnh Tạc về lo việc nước và phải đánh dẹp họ Mạc ở Cao Bằng nên không dòm ngó đến phía Nam; mãi đến năm Nhâm Tí (1672) Trịnh Tạc lại đem mấy vạn quân và rước vua Gia Tông vào Bắc Bố Chính để đánh họ Nguyễn, sai Trịnh Căn làm thủy quân Nguyên Súy, Lê Hiến làm bộ quân Thống suất. Chúa Hiền sai em thứ tư là Hiệp làm Nguyên Súy đem binh ra cùng Nguyễn Hữu Dật và Nguyễn Mỹ Đức giữ các nơi hiểm yếu, chúa Hiền đem đại binh đi tiếp ứng.
     Quân họ Trịnh đánh lũy Trấn Ninh hai ba trận sắp phá được lũy, nhưng Nguyễn Hữu Dật ra sức chống giữ, quân Trịnh đánh mãi không được, phải lùi về Bắc Bố Chính. Đến tháng chạp, trời mưa rét và lại nghe tin Trịnh Căn đi đến Linh Giang bị bệnh nặng, Trịnh Tạc sai Lê Hiến ở lại trấn thủ Nghệ An, Lê Sĩ Triệt làm Đô đốc đóng ở Hà Trung, lấy sông Linh Giang, tức là sông Gianh bây giờ làm giới tuyến Nam Bắc, rồi rút quân về Thăng Long. Từ đó Nam Bắc thôi việc chiến tranh. Mãi đến khi Tây Sơn khởi binh, thì họ Trịnh mới nhân dịp vào đánh lấy đất Thuận Hóa.
     Kể từ năm Đinh Mão (1627) đời vua Thần Tông lần thứ nhất, đến năm Nhâm Tí (1672) đời vua Gia Tông, vừa 45 năm, họ Trịnh, họ Nguyễn đánh nhau cả thảy 7 lần. Trong bấy nhiêu lần, họ Nguyễn chỉ ra đánh họ Trịnh có một lần, lấy được 7 huyện phía nam sông Lam Giang, nhưng vì các tướng họ Nguyễn không đồng lòng với nhau nên lại phải bỏ về giữ đất cũ.
     Về thế lực binh lương thì họ Trịnh mạnh hơn họ Nguyễn, nhưng người Bắc phải đi đánh xa xôi, vận tải khó khăn, mà người Nam thì đánh ở đất nhà mình, có đồn lũy chắc chắn, tướng sĩ hết lòng, cho nên hai bên đối địch chứ không làm gì được nhau, chỉ khổ cho nhân dân, phải sưu dịch vất vả và bị tàn phá thiệt hại rất nhiều.

V- CHÚA NGHĨA NGUYỄN PHÚC TRĂN
     Hoằng Quốc Công Nguyễn Phúc Trăn (1687 - 1691) Truy tôn là Anh tông Hiếu nghĩa Hoàng đế, đương thời gọi là chúa Nghĩa. Lập phủ ở Phú Xuân là chỗ kinh-đô bấy giờ. Mất năm Tân Mùi (1691), thọ 43 tuổi.
VI- QUỐC CHÚA NGUYỄN PHÚC CHU
     Tộ Quốc Công Nguyễn Phúc Chu (1691 - 1725) Truy tôn là Hiến tông Hiếu minh Hoàng đế, đương thời gọi là Quốc chúa. Ông Nguyễn Phúc Chu lấy hết nước Chiêm Thành (nay là đất Bình Thuận) và lại lấy đất Gia Định, Hà Tiên của Chân Lạp. Nguyễn Phúc Chu mất năm Ất Tị (1725), thọ 51 tuổi, có 146 người con.
VII- CHÚA NGUYỄN PHÚC TRÚ
     Đỉnh Quốc Công Nguyễn Phúc Trú (1725-1738) Truy tôn là Túc tông Hiếu ninh Hoàng đế, mở mang đất Gia Định, và bảo hộ nước Chân Lạp. Nguyễn Phúc Trú mất năm Mậu Ngọ (1738), thọ 43 tuổi.
VIII- CHÚA NGUYỄN PHÚC KHOÁT
     Vũ Vương Nguyễn Phúc Khoát (1738 - 1765) Truy tôn là Thế tông Hiếu võ Hoàng đế. Ông Nguyễn Phúc Khoát đánh Chân Lạp mở thêm đất Gia Định. Vũ vương Nguyễn Phúc Khoát xưng vương hiệu năm Ất Dậu (1765).
IX- CHÚA NGUYỄN PHÚC THUẦN
     Định Vương Nguyễn Phúc Thuần(1765- 1777) Truy tôn là Diệu tông Hiếu định Hoàng đế. Đời ngài làm Chúa bị Trương Phúc Loan chuyên quyền. Quân Tây Sơn nổi lên đánh phía nam, quân họ Trịnh đánh phía bắc. Sau quân chúa Trịnh vào lấy mất Phú Xuân, Định vương chạy vào Gia Định bị tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Huệ giết mất. Ngài thọ 24 tuổi.
      CÔNG VIỆC HỌ NGUYỄN LÀM Ở MIỀN NAM
      1. Lấy đất Chiêm Thành.
     Trước đây, Trịnh Kiểm chỉ cho Nguyễn Hoàng vào trấn thủ đất Thuận Hóa; sau đến năm Canh Ngọ (1570) họ Trịnh đòi quan trấn thủ Quảng Nam là Nguyễn Bá Quýnh về trấn đất Nghệ An, để đất Quảng Nam cho Nguyễn Hoàng kiêm lĩnh. Năm Tân Hợi (1611) Nguyễn Hoàng vào đánh nước Chiêm Thành lấy đất lập ra phủ Phú Yên; chia ra làm hai huyện là Đồng Xuân và Tuyên Hòa. Đến năm Quí Tị (1653) vua nước Chiêm Thành là Bà Thấm sang quấy nhiễu ở đất Phú Yên, chúa Hiền là Nguyễn Phúc Tần mới sai quan cai cơ là Hùng Lộc sang đánh, Bà Thấm phải dâng thư xin hàng. Chúa Nguyễn để từ sông Phan Lang trở vào cho vua Chiêm, còn từ sông Phan Lang trở ra lấy làm Thái Ninh phủ, sau đổi là phủ Diên Khánh (Khánh Hòa bây giờ), đặt dinh Thái Khang để Hùng Lộc làm Thái thú. 

     Năm Quí Dậu (1693) vua Chiêm Thành là Bà Tranh bỏ không tiến cống, Chúa Nguyễn Phúc Chu sai quan tổng binh là Nguyễn Hữu Kính (con Nguyễn Hữu Dật) đem binh đi đánh bắt được Bà Tranh và bọn thần tử là Tả Trà Viên, Kế Bà Tử cùng thân thuộc là Bà Ân đem về Phú Xuân. Chúa Nguyễn đổi đất Chiêm Thành làm Thuận phủ, cho Tả Trà Viên, Kế Bà Tử làm chức Khám lý và ba người con của Bà Ân làm Đề đốc giữ Thuận Phủ, lại bắt phải đổi y phục theo như người Việt để phủ dụ dân Chiêm Thành. Qua năm sau lại đổi Thuận phủ ra làm Thuận Thành trấn, cho Kế Bà Tử làm Tả đô đốc. Năm Đinh Sửu (1697) chúa Nguyễn đặt phủ Bình Thuận lấy đất Phan Lý (Phan Tri) Phan Lang (Phan Rang) làm huyện Yên Phúc và huyện Hòa Đa. Từ đó nước Chiêm Thành mất hẳn. Nước Chiêm Thành chính là nước Lâm Ấp ngày trước.
      2. Mở đất Nam Việt và sự giao thiệp với Chân Lạp.
     Nguyên nước Chân Lạp ở vào quãng dưới sông Mê-kông, có nhiều sông ngòi, ruộng đất thì nhiều mà nước Nam ta thường hay mất mùa, dân tình đói khổ, và lại lúc chúa Nguyễn, chúa Trịnh đánh nhau nên nhiều người bỏ vào khẩn đất, làm ruộng ở Mô Xoài (Bà Rịa) và Đồng Nai (Biên Hòa). Năm Mậu Tuất (1658) vua Chân Lạp mất, chú cháu tranh nhau, sang cầu cứu chúa Nguyễn. Chúa Hiền sai quan đem 3.000 quân sang đánh Mỗi Xuy (huyện Phước Chánh, tỉnh Biên Hòa) bắt được vua nước ấy là Nặc Ông Chân đem về giam ở Quảng Bình rồi tha cho về nước, bắt phải triều cống và phải bênh vực người Việt sang làm ăn ở Chân Lạp.
     Năm Giáp Dần (1674), Nặc Ông Đài nước Chân Lạp đi cầu viện Tiêm La đánh Nặc Ông Nộn. Nặc Ông Nộn bỏ chạy sang cầu cứu dinh Thái Khang (Khánh Hòa). Chúa Hiền sai Cai cơ đạo Nha Trang là Nguyễn Dương Lâm cùng Nguyễn Đình Phái làm tham mưu đem binh chia ra hai đạo sang đánh Nặc Ông Đài, phá được đồn Sài Gòn, rồi tiến quân lên vây thành Nam Vang. Nặc Ông Đài phải bỏ thành chạy vào chết trong rừng. Nặc Ông Thu ra hàng. Nặc Ông Thu là chính dòng con trưởng nên lại lập làm chánh Quốc vương đóng ở Long Úc, để Nặc Ông Nộn làm Đệ nhị Quốc vương, đóng ở Sài Gòn, bắt hằng năm phải triều cống.
     Năm Kỷ Tị (1679) quan nhà Minh là tổng binh trấn thủ Long Môn (Quảng Tây) Dương Ngạn Địch, Phó tướng Hoàng Tiến, tổng binh châu Cao, châu Lôi và châu Liêm (thuộc Quảng Đông) là Trần Thượng Xuyên, phó tướng Trần An Bình, không chịu làm tôi nhà Thanh, đem 3.000 quân cùng 50 chiếc thuyền sang xin ở làm dân Việt. Chúa Hiền muốn khai khẩn đất Chân Lạp, cho vào ở Đông Phố (Gia Định). Bọn Ngạn Địch chia nhau ở đất Lộc Đã (Đồng Nai- Biên Hòa), Mỹ Tho (Định Tường), Ban Lân (Biên Hòa) rồi cày ruộng làm nhà lập ra phường phố, có người phương Tây, người Nhật Bản, người Chà Và đến buôn bán rất đông.
     Năm Mậu Thìn (1688) những người khách ở Mỹ Tho làm loạn. Hoàng Tiến giết Dương Ngạn Địch rồi đóng đồn ở Nan Khê, làm tàu đúc súng để chống nhau với người Chân Lạp. Vua Chân Lạp là Nặc Ông Thu cũng đào hào đắp lũy để cố thủ và bỏ không chịu thần phục chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn Phúc Trăn sai quan quân đi đánh dẹp, dùng mưu giết được Hoàng Tiến và bắt vua Chân Lạp phải theo lệ triều cống.
     Năm Mậu Dần (1698) Chúa Nguyễn Phúc Chu sai ông Nguyễn Hữu Kính làm Kinh lược đất Chân Lạp, chia đất Đông Phố ra làm dinh, làm huyện, lấy Đồng Nai làm huyện Phúc Long và Sài Gòn làm huyện Tân Bình. Đặt Trấn biên dinh (Biên Hòa) và Phan trấn dinh (Gia Định) sai quan vào cai trị. Lại chiêu mộ những kẻ lưu dân từ Quảng Bình trở vào để lập ra thôn xã và khai khẩn ruộng đất. Còn những người Tàu ở đất Trấn biên (Biên Hòa) thì lập làm xã Thanh Hà, những người ở đất Phan trấn (Gia Định) thì lập làm xã Minh Hương. Những người ấy đều thuộc về sổ bộ nước ta.
     Bấy giờ có người khách Quảng Đông tên là Mạc Cửu, trong khi nhà Thanh cướp ngôi nhà Minh bên Tàu, bỏ sang ở Chân Lạp, thấy ở phủ Sài Mạt có nhiều người các nước đến buôn bán, bèn mở sòng đánh bạc, rồi lấy tiền chiêu mộ những lưu dân lập ra 7 xã, gọi là Hà Tiên. Năm Mậu Tí (1708) Mạc Cửu xin thuộc về chúa Nguyễn; chúa phong cho làm chức Tổng binh, giữ đất Hà Tiên. Đến khi Mạc Cửu mất, chúa Nguyễn lại phong cho con Mạc Cửu là Mạc Thiên Tứ làm chức Đô đốc, trấn ở Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ đắp thành, xây lũy, mở chợ, làm đường và rước thầy về dạy Nho học để khai hóa đất Hà Tiên.
     Thời bấy giờ đất Chân Lạp rất loạn lạc. Năm Kỷ Mão (1699) vua Chân Lạp là Nặc Ông Thu đem quân chống chúa Nguyễn, chúa sai quan tổng suất Nguyễn Hữu Kính sang đánh. Quân ta sang đến thành Nam Vang, Nặc Ông Thu bỏ chạy, con Nặc Ông Nộn là Nặc Ông Yêm mở cửa thành ra hàng. Sau Nặc Ông Thu cũng về hàng, xin theo lệ triều cống như cũ, quân ta rút về. Được ít lâu vua thứ hai là Nặc Ông Nộn mất, vua thứ nhất là ông Nặc Ông Thu phong cho con Nặc Ông Nộn là Nặc Ông Yêm làm quan và lại gả con gái cho. Sau Nặc Ông Thu già yếu, truyền ngôi cho con là Nặc Ông Thâm. Năm Ất Dậu (1705) Nặc Ông Thâm nghi cho Nặc Ông Yêm có ý làm phản, bèn khởi binh đánh nhau. Nặc Ông Thâm lại đem quân Tiêm La về giúp mình. Nặc Ông Yêm phải chạy sang cầu cứu ở Gia Định. Chúa Nguyễn sai quan cai cơ là Nguyễn Cửu Vân sang đánh Nặc Ông Thâm. Nguyễn Cửu Vân phá được quân Tiêm La, đem Nặc Ông Yêm về thành La Bích. Từ đó Nặc Ông Thâm ở Tiêm La cứ thỉnh thoảng đem quân về đánh Nặc Ông Yêm. Năm Giáp Ngọ (1714) quân của Nặc Ông Thâm về lấy thành La Bích và vây đánh Nặc Ông Yêm. Nặc Ông Yêm sai người sang Gia Định cầu cứu. Quan đô đốc Phiên trấn (Gia Định) là Trần Thượng Xuyên và quan phó tướng Trấn biên (Biên Hòa) là Nguyễn Cửu Phú phát binh sang đánh, vây Nặc Ông Thu và Nặc Ông Thâm ở trong thành La Bích. Nặc Ông Thu và Nặc Ông Thâm sợ hãi, bỏ thành chạy sang Tiêm La. Ông Trần Thượng Xuyên lập Nặc Ông Yêm lên làm vua Chân Lạp. Năm Tân Hợi (1729) quân Chân Lạp sang quấy nhiễu ở hạt Gia Định. Chúa Nguyễn bèn đặt sở Điều khiển để thống nhiếp việc binh ở mạn ấy. Năm Bính Thìn (1736) Nặc Ông Yêm mất, con là Nặc Ông Tha lên làm vua. Đến năm Mậu Thìn (1747) Nặc Ông Thâm lại ở bên Tiêm La về, cử binh đánh đuổi Nặc Ông Tha rồi chiếm lấy ngôi vua. Nặc Ông Tha bỏ chạy sang Gia Định. Được ít lâu Nặc Ông Thâm mất, con là Nặc Đôn, Nặc Hiên và Nặc Yếm tranh nhau. Chúa Nguyễn bèn sai quan Điều khiển là Nguyễn Hữu Doãn đem quân sang đánh Nặc Đôn và đem Nặc Ông Tha về nước. Nặc Ông Tha về được mấy tháng lại bị người con thứ hai của Nặc Ông Thâm là Nặc Nguyên đem quân Tiêm La sang đánh đuổi đi. Nặc Ông Tha chạy sang chết ở Gia Định. Nặc Nguyên về làm vua Chân Lạp thường hay hà hiếp rợ Côn Man và lại thông sứ với chúa Trịnh ngoài Bắc để lập mưu đánh chúa Nguyễn. Chúa Nguyễn biết tình ý ấy, đến năm Quí Dậu (1753), sai Nguyễn Cư Trinh sang đánh Nặc Nguyên. Năm Ất Hợi (1755) Nặc Nguyên thua bỏ thành Nam Vang chạy sang Hà Tiên nhờ Mạc Thiên Tứ. Năm sau Mạc Thiên Tứ dâng thư về nói rằng Nặc Nguyên xin dâng hai phủ Tầm Bôn và Lôi Lạp để chuộc tội và xin cho về nước. Chúa Nguyễn không muốn cho. Bấy giờ ông Nguyễn Cư Trinh dâng sớ bày tỏ nên dùng kế "tầm thực" nghĩa là nên lấy dần dần như con tầm ăn lá, thì mới chắc chắn. Chúa Nguyễn nghe lời ấy bèn nhận hai phủ và cho Nặc Nguyên về Chân Lạp.
     Năm Đinh Sửu (1759) Nặc Nguyên mất, chú họ là Nặc Nhuận làm Giám quốc. Nặc Nhuận còn đang lo để xin chúa Nguyễn phong cho làm vua thì bị người con rể là Nặc Hinh giết rồi cướp ngôi làm vua. Quan Tổng suất Trương Phúc Du thừa kế sang đánh, Nặc Hinh thua chạy bị thuộc hạ giết chết, con Nặc Nhuận là Nặc Tôn chạy sang nhờ Mạc Thiên Tứ ở Hà Tiên. Mạc Thiên Tứ dâng thư xin lập Nặc Tôn làm vua Chân Lạp. Chúa Nguyễn thuận cho, sai Thiên Tứ đem Nặc Tôn về nước. Nặc Tôn dâng đất Tầm Phong long để tạ ơn chúa Nguyễn. Chúa sai ông Trương Phúc Du và Nguyễn Cư Trinh đem dinh Long Hồ về Tầm Bào, tỉnh lỵ Vĩnh Long bây giờ và đặt ra ba đạo là Đông Khẩu đạo ở Sa Đéc, Tân Châu đạo ở Tiền Giang và Châu Đốc đạo ở Hậu Giang. Nặc Tôn lại dâng 5 phủ Hương Úc, Cần Bột, Trực Sâm, Sài Mạt và Linh Quỳnh để tạ ơn Mạc Thiên Tứ. Mạc Thiên Tứ đem dâng chúa Nguyễn, chúa cho thuộc về trấn Hà Tiên. Vậy, đất 6 tỉnh Nam Việt bây giờ là đất lấy của nước Chân Lạp mà người Việt khai thác.
     3. Việc giao thiệp với nước Tiêm La.
     Tiêm La là một nước ở về phía tây nam sông Mê-kông, dòng dõi người Thái sang ở đấy. Cứ theo sử ta và sử Tàu thì thoạt đầu tên gọi là nước Phù Nam. Đến thời nhà Tùy- Đường bên Tàu thì đất Phù Nam chia ra làm hai: một nửa phía đông có một dân tộc khác đến lập ra nước Chân Lạp, một nửa phía tây thì người Phù Nam ở gọi là nước Xích Thổ.
     Vào thời nhà Tống, nhà Kim (thế kỷ thứ XI, thứ XII) nước Xích Thổ lại chia ra làm hai: một nước gọi là La Hộc, một nước gọi là Tiêm. Lúc nhà Nguyên làm vua bên Tàu (thế kỷ thứ XIII, thứ XIV) thì sử có chép hai nước ấy sang cống. Về sau nước La Hộc gồm được cả nước Tiêm, mới gọi là nước Tiêm La Hộc. Đến đầu nhà Minh (cuối thế kỷ thứ XIV) vua nước ấy sang cầu phong bên Tàu, vua Thái tổ nhà Minh mới phong là nước Tiêm La.
     Nước Tiêm La lúc đầu còn nhỏ yếu, thường bị người Chân Lạp áp chế. Sau cường thịnh dần rồi vào khoảng năm Vạn Lịch (1573- 1620) nhà Minh, nước Tiêm La đánh Chân Lạp mà hùng bá cả phương ấy. Thời ấy vua Tiêm La là Phra- Naroi dòng dõi nhà Ayouthia dùng một người Hi Lạp tên là Constantin Phaulcon làm tướng. Người ấy xin vua giao thiệp với nước Pháp. Bởi vậy năm 1620 mới có bọn sứ thần Tiêm La sang bái yết Pháp hoàng Louis XIV tại Versailles.
     Bấy giờ chúa Nguyễn còn đang khai sáng đất Phú Yên, Khánh Hòa, nhưng về sau chúa Nguyễn lấy hết đất Chiêm Thành, lại lấn sang đất Chân Lạp. Người Tiêm La có ý muốn ngăn trở để giữ lấy Chân Lạp làm của mình. Nhưng vì thế chúa Nguyễn mạnh hơn nên phải chịu để chúa Nguyễn sang bảo hộ Chân Lạp. Tuy vậy, nước Tiêm La thường dùng những người phản đối vua Chân Lạp, rồi giúp binh lực cho về làm loạn trong nước, quân ta phải sang đánh đuổi quân Tiêm La để giúp quốc vương Chân Lạp. Cũng có khi quân Tiêm La sang đánh đất Hà Tiên, như năm Ất Tị (1715) người Chân Lạp là Nặc Thâm đem quân Tiêm La sang cướp phá, quan tổng binh Hà Tiên là Mạc Cửu phải bỏ thành mà chạy. Quân ta và quân Tiêm La đã giao chiến nhiều lần nên hai bên không thông sứ với nhau. Mãi đến năm Canh Ngọ (1750) đời chúa Võ vương Nguyễn Phúc Khoát mới thấy sử chép rằng chúa sai quan đem thư sang trách nước Tiêm La dung túng kẻ nghịch thần làm loạn nước Chân Lạp. Năm Ất Hợi (1755) nước Tiêm La sai sứ sang xin miễn đánh thuế thuyền buôn bán ở đất chúa Nguyễn. Chúa trả lời rằng thuế ấy là quốc lệ đặt ra không thể bỏ được.
     Năm Đinh Hợi (1767) quân nước Diến Điện sang đánh Tiêm La bắt được vua nước ấy là Phong vương và con là Chiêu Đốc cùng mấy vạn dân đem về Diến Điện. Còn những người con của Phong vương là Chiêu Xỉ Khang thì chạy sang Chân Lạp và Chiêu Thúy thì chạy sang Hà Tiên. Bấy giờ nước Tiêm La không có vua, chức Phi nhã (Phya) đất Mang tát là Trịnh Quốc Anh bèn khởi binh tự lập làm vua. Trịnh Quốc Anh là người Triều Châu, tỉnh Quảng Đông, cha tên là Yển sang ở đất Tiêm La làm trưởng ở Mang tát. Yển chết, Trịnh Quốc Anh lên nối nghiệp xưng là Phi nhã, là một chức xã trưởng vậy.
     Trịnh Quốc Anh lên làm vua rồi sai sứ sang bắt vua Chân Lạp là Nặc Tôn phải sang cống. Nặc Tôn lấy lẽ rằng Trịnh Quốc Anh không phải là dòng dõi người Tiêm La, không chịu cống. Vua Tiêm La lấy điều ấy làm hiềm, sai tướng là Bôn Ma đem người Chân Lạp tên là Nặc Non về đánh Nặc Tôn. Nặc Tôn giữ vững các nơi, quân Tiêm La không làm gì được lại rút về. Trịnh Quốc Anh biết con vua cũ là Chiêu Thúy còn ở Hà Tiên, sợ ngày sau sinh biến loạn, bèn đến tháng 10 năm Tân Mão (1771) đem binh thuyền sang vây đánh Hà Tiên. Quan Tổng binh là Mạc Thiên Tứ giữ không nổi phải bỏ thành chạy. Vua Tiêm La để tướng là Trần Liên, ở lại giữ Hà Tiên rồi tiến quân sang đánh Chân Lạp. Quốc vương là Nặc Tôn phải bỏ chạy. Vua Tiêm La đóng quân ở thành Nam Vang và lập Nặc Non lên làm vua Chân Lạp. Vua nước Tiêm La bấy giờ có bệnh hủi, cho nên sử gọi là Phong Vương
     Tháng 6 năm 1772, chúa Nguyễn sai quan tổng suất Nguyễn Cửu Đàm lĩnh chức Điều khiển đem quân đi đánh Tiêm La. Quân của Nguyễn Cửu Đàm tiến sang Nam Vang, quân Tiêm La bỏ chạy về Hà Tiên, Nặc Non chạy về Cầu Bột. Nặc Tôn lại về làm vua Chân Lạp. Vua Tiêm La về đến Hà Tiên sai người đưa thư sang gọi Mạc Thiên Tứ về để giảng hòa. Mạc Thiên Tứ không chịu. Vua Tiêm La bèn để Trần Liên ở lại giữ Hà Tiên, rồi bắt con gái Mạc Thiên Tứ và Chiêu Thúy đem về nước. Năm sau Mạc Thiên Tứ thấy việc không xong, bèn sai người sang Tiêm La xin hòa. Vua Tiêm La gọi Trần Liên về và cho con gái của Mạc Thiên Tứ về Hà Tiên và giết Chiêu Thúy. Từ đó Mạc Thiên Tứ lại về giữ đất Hà Tiên.
     4. Lập dinh, định phủ.
     Lúc đầu, Nguyễn Hoàng mới vào trấn đất Thuận Hóa đóng dinh ở làng Ái Tử (thuộc huyện Đăng Xương, tỉnh Quảng Trị) được 13 năm, năm 1570, Nguyễn Hoàng dời dinh vào làng Trà Bát, tức là Cát Dinh. Đến năm Bính Dần (1626) chúa Sãi là Nguyễn Phúc Nguyên sắp sửa chống nhau với chúa Trịnh, mới dời dinh vào làng Phúc An (huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên) và đổi thành Phủ. Năm Bính Tí (1636) chúa Thượng Nguyễn Phúc Lan lại dời Phủ vào làng Kim Long (huyện Hương Trà, tỉnh Thừa Thiên). Năm Đinh Mão (1687) chúa Nguyễn Phúc Trăn đem Phủ về làng Phú Xuân, tức là đất Kinh Thành bây giờ, gọi là chính dinh. Chỗ phủ cũ để làm Thái tông miếu, thờ chúa Hiền.
     Năm Giáp Tí (1744) Vũ vương xưng vương hiệu đổi phủ thành điện, sửa sang phép tắc và định triều phục. Lại chia nước ra làm 12 dinh:
     1. Chính dinh (Phú Xuân); 2. Cựu dinh (Ái Tử); 3. Quảng Bình dinh; 4. Vũ Xá dinh; 5. Bố Chính dinh; 6. Quảng Nam dinh; 7. Phú Yên dinh; 8. Bình Khang dinh- đất Chiêm Thành; 9. Bình Thuận dinh; 10. Trấn Biên dinh; 11. Phiên trấn dinh- đất Chân Lạp; 12. Long hồ dinh. Dinh nào cũng đặt quan Trấn thủ, quan Cai Hạ, quan Ký Lục để coi việc cai trị. Còn phủ Quảng Nghĩa và phủ Qui Nhơn thì thuộc về tỉnh Quảng Nam, cho nên mỗi phủ đặt riêng quan Tuần phủ và quan Khám Lý để coi mọi việc. Đất Hà Tiên thì đặt là Trấn, có quan đô đốc cai trị.
     Tóm lại, họ Nguyễn làm Chúa miền Nam, nhưng trước thì vẫn giữ chức vua Lê phong cho, mãi đến đầu thế kỷ thứ XVIII năm Nhâm Ngọ (1702) Nguyễn Phúc Chu mới sai người sang cống vua nhà Thanh xin phong làm vua, Thanh triều nói rằng nước Nam còn có họ Lê không phong được cho họ Nguyễn. Việc ấy lại im đi. Nguyễn Phúc Chu bèn xưng là Quốc chúa và đúc cái ấn Đại Việt Quốc Nguyễn Chúa Vĩnh Trấn Chi Bảo làm vật Truyền quốc bảo, đến đời vua Thế tổ mới thôi. Đến năm Giáp Tí (1744) Nguyễn Phúc Khoát mới xưng Vương hiệu và đổi chế độ, định ra triều nghi.
     Bấy giờ đất phía Nam tuy độc lập nhưng họ Nguyễn chỉ xưng Chúa, chứ không xưng Vua và vẫn không đặt Quốc hiệu. Nhưng người ngoại quốc thường gọi đất chúa Nguyễn là Quảng Nam quốc là vì ở Quảng Nam có phố Hội An (Faifo) là chỗ người Tàu và người các nước ra vào buôn bán, cho nên lấy tên Quảng Nam mà gọi. Còn những việc họ Nguyễn làm ở phía Nam quan trọng cho nước Nam ta hơn cả là việc mở mang bờ cõi cho nước lớn lên, người nhiều ra, và nhất là chiêu mộ những người nghèo khổ đưa đi khai khẩn những vùng đất phì nhiêu bỏ hoang, làm cho Nam Việt bây giờ phồn phú hơn cả mọi nơi, ấy là cái công họ Nguyễn với nước Nam thật là to lắm vậy.

NGƯỜI ÂU CHÂU SANG NƯỚC NAM
     1. Sự đi tìm đất.
     Người Âu châu sang Á đông: Từ đời La Mã, đã có sách chép người Âu châu sang đến nước Tàu, nhưng không rõ cách giao thiệp; đến thế kỷ XIII mới có ông Marco Polo, người nước I-ta-li sang ở triều nhà Nguyên về đời vua Thế tổ Tất Liệt hằng 17 năm, rồi sau đi qua Ấn Độ dương về nước, làm ra quyển sách: "Thế-giới kỳ-quan" (Les merveilles du monde), kể những chuyện ông ấy đã biết.
     Về sau vào thế kỷ XV, ông Kha Luân Bố (Christophe Colomb) dùng la bàn (boussole) định đi qua Đại Tây dương sang Ấn Độ, rồi tìm thấy châu Mỹ(Amérique); đến năm 1479, người Bồ Đào Nha (Portugal) tên là Vasco de Gama đi vòng qua mũi Hảo vọng(Cap de Bonne Espérance) sang Ấn Độ dương vào đất Ấn Độ. Năm 1521 lại có người Bồ Đào Nha tên là Magellan đi qua Ấn Độ dương sang Thái Bình Dương vào đất Phi Luật Tân (Philippines). Từ đó về sau người Bồ Đào Nha (Portugal) mới sang Tây Ban Nha (Espagne) và người Hòa Lan (Hollande) mới sang Á đông lấy đất thuộc địa và mở cửa hàng buôn bán như sau này.
     Năm Quí Hợi(1563) về đời Gia Tĩnh nhà Minh, người Bồ Đào Nha đến ở đất Áo Môn (Macao) nước Tàu. Năm Mậu Thìn (1568) người Tây Ban Nha sang lấy đất Phi Luật Tân làm thuộc địa. Năm Bính Thân (1596) người Hòa Lan sang lấy đất Trà Và (Java) làm thuộc địa. Về sau dần dần người Bồ Đào Nha, người Pháp(France) và người Anh(Angleterre) đến ở đất Ấn Độ.
     Người Âu châu sang đất Việt Nam: Người Âu châu sang buôn bán ở nước ta gồm có người Bồ Đào Nha đến ở xứ Nam trước hết, mở cửa hàng ở phố Hội An (Faifo) thuộc đất Quảng Nam. Ở đấy lại có người Tàu, người Nhật Bản và người Hòa Lan đến buôn bán. Sách của ông Maybon và Russier có chép rằng năm Giáp Dần (1614) đời chúa Sãi đã có người Bồ Đào Nha tên là Jean de la Croix đến lập lò đúc súng ở đất Thuận Hóa- Huế nay chỗ ấy gọi là Phường đúc.
     Ở ngoài Bắc thì có tàu của Bồ Đào Nha ra vào buôn bán, đến năm Đinh Sửu (1637) đời vua Thần tông nhà Lê, Thanh đô vương Trịnh Tráng mới cho người Hòa Lan đến mở cửa hàng ở Phố Hiến (Hưng Yên). Về sau có người Nhật Bản, người Tàu, người Tiêm La đến buôn bán kể có 2.000 nóc nhà, rất vui vẻ, nên tục ngữ có câu "Thứ nhất Kinh kỳ, thứ nhì Phố Hiến". Người Bồ Đào Nha ở trong Nam nhiều hơn, ở ngoài Bắc người Hòa Lan nhiều hơn. Chúa Trịnh và chúa Nguyễn đều có ý muốn nhờ họ giúp nhưng vì lợi ích buôn bán nên họ không chịu, các chúa cũng chán vì việc tôn giáo nên đến năm Canh Thìn (1700) đời vua Lê Hi tông, người Hòa Lan thôi không vào buôn bán ở ngoài Bắc nữa. Người Anh người Pháp cũng vào buôn bán ở nước ta. Năm Nhâm Tí (1672) đời vua Lê Hi tông, người Anh đem chiếc tàu Zant vào xin mở cửa hàng buôn bán, chúa Trịnh cho xuống ở Phố Hiến, nhưng vì sau sự buôn bán không được thịnh lợi, người Anh chỉ ở đến năm Đinh Sửu (1697) rồi thôi. Còn người Pháp thì từ năm Canh Thân (1680) đã có tàu vào xin mở cửa hàng ở Phố Hiến; đến năm Nhâm Tuất (1682) lại có chiếc tàu Saint Joseph ở Tiêm La sang đem phẩm vật dâng chúa Trịnh.
     Ở trong Nam thì năm Bính Dần (1686) có người Pháp tên là Verret được phép mở cửa hàng ở cù lao Côn Lôn. Đến năm Kỷ Tị (1749) lại có một người Pháp tên là Poivre đi chiếc tàu Machault vào Hội An, xin vào yết kiến chúa Nguyễn và dâng tờ quốc thư cùng phẩm vật để tỏ tình giao hiếu của hai nước. Chúa Nguyễn cũng đáp thư lại, thuận cho người Pháp vào thông thương. Nhưng chẳng được bao lâu thì công ty của Pháp ở Ấn Độ bãi đi nên sự thông thương với người Pháp cũng bãi.
     2. Sự đi truyền giáo.
     Đạo Thiên chúa: Nguyên châu Âu không có nhất định một tôn giáo nào cả mà mỗi dân tộc thờ một vị thần riêng. Họ thường tưởng tượng ra các vị thần, rồi làm đền, làm đài để thờ cúng. Như dân tộc Hi Lạp (Grec) và dân tộc La Mã (Romain) thờ thần Giu-bi-te (Jupiter), thần A-bô-lông (Apollon) và các vị thần khác vậy. Duy có dân tộc Do thái (Juifs) ở đất Tiểu Á-tế-á, nay là đất Palestine đã được độc lập, chỉ thờ một vị thần gọi là Jéhovah sinh hóa vạn vật và người; cho nên người chỉ phải thờ một vị thần ấy mà thôi. Đến đời dân La Mã đã kiêm tính được cả đất Tiểu Á-tế-á, đất bắc châu Phi và đất tây nam châu Âu, dân Do thái cũng thuộc về La Mã, mà đạo Do thái bấy giờ cũng đã suy lắm rồi. Lúc ấy đức Gia-tô ra đời, nhân đạo Do thái mà lập ra đạo mới dạy người lấy sự yêu mến và tôn kính Thiên chúa làm gốc, lấy bụng từ bi nhân thứ, coi người như anh em ruột thịt làm cốt. Từ đó về sau các môn đồ đem đạo ấy đi truyền bá các nơi. Ông Saint Pierre thì sang lập giáo đường ở tại Kinh thành La Mã, ông Saint Paul thì đi truyền đạo ở khắp trong nước. Đạo của ông Gia Tô lập ra cho nên ta thường gọi là đạo Gia Tô, lại vì đạo ấy chỉ thờ Thiên Chúa nên gọi là đạo Thiên Chúa. Có phái gọi là Cơ đốc bởi chữ Christ là bậc cứu thế.
     Bên Á đông thì từ đời nhà Đường (618-907) sử chép có Cảnh giáo tức là một phái Gia-tô-giáo đã sang Tàu, nhưng vì bấy giờ đạo Phật đang thịnh, cho nên đạo Cảnh giáo mất dần đi. Mãi đến đời nhà Nguyên, nhà Minh mới có giáo sĩ sang giảng đạo Gia tô ở nước Tàu.
     Đạo Thiên chúa sang nước Nam: Nước Nam ta từ khi có người châu Âu sang buôn bán, thì có giáo sĩ sang dạy đạo. Theo Khâm định Việt sử, từ năm Nguyên hòa nguyên niên đời vua Trang tông nhà Lê (1533) có người Tây tên là I-nê-khu đi đường bể vào giảng đạo Thiên chúa ở làng Ninh Cường, làng Quần Anh, thuộc huyện Nam Chân (tức là Nam Trực) và ở làng Trà Lũ, thuộc huyện Giao Thủy. Sách Nam sử của Trương Vĩnh Ký chép rằng năm Bính Thân (1596) đời ông Nguyễn Hoàng có người giáo sĩ Tây Ban Nha tên là Diego Adverte vào giảng đạo ở trong Nam sớm nhất. Nhưng lúc bấy giờ lại có mấy chiếc tàu Tây Ban Nha cùng đến, chúa Nguyễn sợ có ý quấy nhiễu gì chăng, bèn đuổi đi. Đến năm Ất Mão (1615) đời chúa Sãi, giáo sĩ là P. Busomi lại đến giảng đạo, rồi đến năm Giáp Tí (1624) có giáo sĩ tên là Jean Rhodes, người Pháp, đến giảng đạo ở Phú Xuân và lập ra các giáo đường. Năm Bính Dần (1626) đời vua Lê Thần tông, giáo sĩ là Baldinoti vào giảng đạo ở ngoài Bắc, chúa Trịnh không cho, phải bỏ đi. Được ít lâu ông Jean Rhodes ở trong Nam ra Bắc vào yết kiến chúa Trịnh và đem dâng các đồng hồ quả lắc, chúa Trịnh cho ông Jean Rhodes được giảng đạo tại Kinh đô. Cứ theo sử thì năm Tân Tị (1631) ở trong Nam, chúa Thượng là Nguyễn Phúc Lan  cấm không cho người Tây vào giảng đạo ở trong nước.
     Cảnh giáo là một phái đạo Gia Tô của người chủ giáo tên là Nestorius lập ra từ đệ ngũ thế kỷ ở Đông La Mã, rồi truyền sang nước Ba Tư (Perse) và nước Tàu.
     Năm Quí Mão (1663) ở ngoài Bắc, chúa Trịnh là Trịnh Tạc bắt đuổi các giáo sĩ và cấm không cho người mình theo đạo Gia-tô. Năm Giáp Thìn (1644) chúa Hiền ở miền Nam bắt giết những người đi giảng đạo ở Đà Nẵng. Năm Bính Tí (1696) đời vua Lê Hi tông, Trịnh Căn bắt đốt phá hết cả những sách đạo và nhà đạo ở các nơi và đuổi những người giảng đạo ra ngoài nước. Năm Nhâm Thìn (1712) đời vua Lê Dụ tông, Trịnh Cương bắt những người theo đạo Gia-tô phải cạo trán và khắc vào mặt bốn chữ "học Hoa lan đạo". Năm Giáp Tuất (1754) đời Cảnh Hưng, Trịnh Doanh lại nghiêm cấm rất ngặt, không cho người ta đi theo đạo, và lại giết cả các đạo trưởng và đạo đồ.
     Tóm lại mà xét, thì giả sử người ngoại quốc vào nước ta chỉ có việc buôn bán thì chắc rằng nước ta xưa nay vốn là một nước văn hiến, vua quan ta cũng không có lẽ gì mà ngăn cấm; nhưng bởi vì khi đã quan hệ đến việc sùng tín, thì dù hay dở thế nào mặc lòng, người ta ai cũng cho sự sùng tín của mình là phải hơn, thành ra không ai khoan dung cho ai, rồi cứ phải dùng thế lực để mà đè nén nhau. Cũng vì thế cho nên về sau nước ta không chịu suy xét lẽ phải trái cho kỹ càng, làm lắm sự tàn ác để đến nỗi mất cả sự hòa hiếu với các nước ở phương Tây và gây nên cái mối biến loạn cho nước nhà vậy. 

VẬN TRUNG SUY CỦA CHÚA NGUYỄN  
THỜI CHÚA NGUYỄN PHÚC THUẦN
     Định Vương Nguyễn Phúc Thuần(1765- 1777) Truy tôn là Diệu tông Hiếu định Hoàng đế. Đời ngài làm Chúa bị Trương Phúc Loan chuyên quyền. Quân Tây Sơn nổi lên đánh phía nam, quân họ Trịnh đánh phía bắc. Sau quân chúa Trịnh vào lấy mất Phú Xuân, Định vương chạy vào Gia Định bị tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Huệ giết mất. Ngài thọ 24 tuổi.
     1. Trương Phúc Loan chuyên quyền.
     Từ ông Nguyễn Hoàng trở đi, họ Nguyễn làm Chúa trong Nam, phía bắc chống nhau với họ Trịnh, phía nam đánh lấy đất Chiêm Thành và đất Chân Lạp, truyền đến đời Vũ Vương là Nguyễn Phúc Khoát mới xưng vương hiệu. Vũ Vương định triều nghi, lập cung điện ở đất Phú Xuân, và phong cho người con thứ 9 là Nguyễn Phúc Hiệu làm thế tử.
     Năm Ất Dậu (1765) Vũ Vương mất. Bấy giờ Thế tử đã mất rồi, con Thế tử là Nguyễn Phúc Dương hãy còn nhỏ, mà người con trưởng của Vũ Vương cũng mất rồi. Tờ di chiếu để lại định lập người con thứ hai lên nối nghiệp Chúa, nhưng khi ấy người quyền thần là Trương Phúc Loan chuyên quyền làm bậy, bèn đổi tờ di chiếu đi mà lập người con thứ 16 của Vũ Vương, mới có 12 tuổi, lên làm Chúa, gọi là Định Vương.
     Trương Phúc Loan là người tham lam, làm nhiều điều tàn ác, trong nước ai ai cũng oán giận, bởi thế cho nên, ở phía nam thì có Tây Sơn dấy binh đánh phá tại đất Qui Nhơn; ở mặt bắc thì có quân họ Trịnh vào lấy đất Phú Xuân, làm cho cơ nghiệp họ Nguyễn xiêu đổ vậy.
     2. Tây Sơn dấy binh.
     Ở huyện Phù Ly (nay là Phù Cát) đất Quy Nhơn, có người tên là Nguyễn Nhạc khởi binh phản đối chúa Nguyễn. Nguyên ông tổ bốn đời của Nguyễn Nhạc là họ Hồ cùng một tổ với Hồ Quý Ly ngày trước, người ở huyện Hưng Nguyên, đất Nghệ An, gặp lúc chúa Trịnh, chúa Nguyễn đánh nhau, bị bắt đem vào ở ấp Tây Sơn thuộc đất Quy Nhơn. Đến đời ông thân sinh là Hồ Phi Phúc dời nhà sang ở ấp Kiên Thành, nay là làng Phú Lạc, huyện Tuy Viễn, sinh được 3 người con: trưởng là Nhạc, thứ là Lữ, thứ ba là Huệ. Anh em ông Nhạc muốn khởi loạn, mới lấy họ mẹ là Nguyễn để khởi sự cho dễ thu phục nhân tâm, vì rằng đất trong Nam vẫn là đất của chúa Nguyễn.
     Nguyễn Nhạc làm biện lại ở Vân Đồn, người ta thường gọi là biện Nhạc. Nhưng vì tính hay đánh bạc, tiêu mất cả tiền thuế, sợ phải tội, bỏ đi vào rừng làm giặc. Đến năm Tân Mão (1771) mới lập đồn trại ở đất Tây Sơn, chiêu nạp quân sĩ, người theo về càng ngày càng đông. Thường hay lấy của nhà giàu cho nhà nghèo, cho nên những kẻ nghèo khổ theo phục rất nhiều. Thế Nguyễn Nhạc mỗi ngày một mạnh, quân nhà chúa đánh không được. Vả lại Nhạc là một người có can đảm và lắm cơ trí: Một hôm định vào lấy thành Qui Nhơn, bèn lập mưu, ngồi vào trong cái cũi, cho người khiêng vào nộp quan Tuần Phủ ở đấy là Nguyễn Khắc Tuyên. Nguyễn Khắc Tuyên tưởng là thật, cho đưa vào trong thành. Đến nửa đêm, Nhạc phá cũ ra, mở cửa thành cho quân mình vào đánh đuổi quan quân đi, giữ lấy thành Qui Nhơn. Bấy giờ lại có mấy người khách buôn tên là Tập Đình và Lý Tài cũng mộ quân nổi lên theo giúp Tây Sơn. Nguyễn Nhạc chia quân ra làm 5 đồn là: trung, tiền, hậu, tả, hữu, rồi tiến lên đánh lấy đất Quảng Nam. Chẳng bao lâu từ đất Quảng Nghĩa bây giờ cho đến Bình Thuận đều thuộc về Tây Sơn cả. Ấp Tây Sơn nay là đất thôn An Khà và thôn Cửu An thuộc phủ Hoài Nhân. Vì anh em Nguyễn Nhạc khởi nghiệp ở chỗ ấy, nên mới gọi là Tây Sơn.
     3. Quân Họ Trịnh vào lấy Phú Xuân.
     Khi trong Nam có quyền thần chuyên chính ở trong, Tây Sơn đánh phá ở ngoài, ở ngoài Bắc chúa Trịnh Sâm biết tình trạng như vậy, bèn sai đại tướng là Hoàng Ngũ Phúc đem thủy bộ hơn 3 vạn quân cùng với Hoàng Phùng Cơ, Hoàng Đình Thể, Hoàng Đình Bảo vào đất Bố Chính để đánh họ Nguyễn, giả nói là vào đánh Trương Phúc Loan.
     Đến tháng 10 năm Giáp Ngọ (1774) quân Hoàng Ngũ Phúc sang sông Linh Giang, sai Hoàng Đình Thể đem binh đến đánh lấy lũy Trấn Ninh, nhờ có nội ứng nên không đánh mà lấy được lũy. Trịnh Sâm được tin Hoàng Ngũ Phúc phá được thành Trấn Ninh rồi, bèn quyết kế đem đại binh vào tiếp ứng. Đến tháng chạp, quân của Ngũ Phúc tiến đóng ở làng Hồ Xá (huyện Minh Linh, Quảng Trị) rồi truyền hịch đi nói rằng quân Bắc chỉ vào đánh Trương Phúc Loan chứ không có ý gì khác. Các quan ở Phú Xuân lập mưu bắt Phúc Loan đem nộp. Hoàng Ngũ Phúc bắt được Trương Phúc Loan, tiến binh đến huyện Đăng Xương, sai người đưa thư đến Phú Xuân nói rằng Phúc Loan tuy đã trừ, nhưng Tây Sơn hãy còn, vậy xin đem binh đến hội tại Phú Xuân để cùng đánh giặc.
     Chúa Nguyễn biết mưu Hoàng Ngũ Phúc đánh lừa để lấy kinh thành, bèn sai Tôn Thất Tiệp cùng với quan Chưởng cơ là Nguyễn Văn Chinh đem thủy bộ quân ra án ngữ ở sông Bái Đáp Giang (nay gọi là Phu Lệ ở huyện Quảng Điền). Hoàng Ngũ Phúc sai Hoàng Đình Thể đem binh đi lên đường núi rồi tiến binh hai mặt đánh ập lại, quân họ Nguyễn vỡ tan bỏ chạy cả, quân Bắc tiến lên lấy thành Phú Xuân, chúa Nguyễn và các quan chạy vào Quảng Nam.
     Chúa Trịnh Sâm đóng ở Hà Trung, được tin Hoàng Ngũ Phúc đã lấy được Phú Xuân rồi, mừng lắm, sai quan đưa cho Ngũ Phúc 100 lạng vàng, cho các tướng sĩ 5.000 lạng bạc, lại phong cho Ngũ Phúc làm Đại Trấn Phủ đất Thuận Hóa để lo việc lấy đất Quảng Nam rồi Trịnh Sâm rút quân về Bắc.
     4. Chúa Nguyễn vào Gia Định.
     Chúa Nguyễn vào Quảng Nam đóng ở Bến Vân, lập cháu là Nguyễn Phúc Dương làm đông cung để lo việc đánh giặc. Được mấy tháng quân Tây Sơn ở Quy Nhơn kéo ra đánh lấy Quảng Nam, quân Chúa Nguyễn đánh không nổi, thua chạy về đóng ở Trà Sơn. Chúa Nguyễn cùng cháu là ông Nguyễn Phúc Ánh chạy vào Gia Định, để Đông Cung ở lại Quảng Nam đóng đồn ở làng Câu Để (huyện Hòa Vinh).
     Nguyễn Nhạc sai người rước Đông cung về đóng ở Hội An (Faifo, Quảng Nam). Quân của Hoàng Ngũ Phúc vượt Hải Vân Sơn vào lấy đồn Trung Sơn và đồn Câu Để ở huyện Hòa Vinh, Nguyễn Nhạc sai Tập Đình làm tiên phong, Lý Tài làm trung quân, còn mình làm hậu tập đánh quân họ Trịnh ở làng Cẩm Sa (thuộc Hòa Vinh). Quân của Tập Đình là người khách Quảng Đông và những người mọi to lớn, ai nấy cởi trần đội khăn đỏ cầm phang, đeo khiên, đánh rất hăng. Quân của Ngũ Phúc đánh không nổi, Ngũ Phúc sai Hoàng Đình Thể và Hoàng Phùng Cơ đem kỵ binh xông trận, rồi bộ binh đánh tràn vào. Tập Đình thua chạy. Nguyễn Nhạc và Lý Tài phải lùi về giữ bến Bản rồi đưa Đông Cung về Quy Nhơn. Tập Đình vốn là người bạo ngược, Nguyễn Nhạc muốn nhân dịp thua trận bắt giết đi. Tập Đình biết ý bỏ chạy về Quảng Đông bị quan nhà Thanh bắt được đem chém.
     Ở phía nam quan Lưu thủ đất Long Hồ là Tống Phúc Hợp đem quân đánh lấy được ba phủ là Bình Thuận, Diên Khánh và Bình Khánh, rồi ra đánh Phú Yên; phía bắc thì quân Trịnh đóng ở Quảng Nam, Nguyễn Nhạc liệu thế chống không nổi, sai Phan Văn Tuế đem thư và vàng lụa nói với Hoàng Ngũ Phúc xin nộp đất Quảng Nghĩa, Quy Nhơn, Phú Yên và xin làm tiền khu đi đánh họ Nguyễn.
     Hoàng Ngũ Phúc muốn dùng Nguyễn Nhạc để đánh Gia Định, bèn xin chúa Trịnh cho Nguyễn Nhạc làm tiên phong tướng quân, Tây Sơn Hiệu trưởng, sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem cờ và ấn kiếm vào cho Nguyễn Nhạc. Nguyễn Nhạc không lo mặt bắc nữa, lập mưu đánh lấy đất Nam, đem con gái mình là Thọ Hương dâng cho Đông Cung và khoản đãi rất tôn kính, rồi sai người giả đến nói với Tống Phúc Hợp xin về hàng để lo khôi phục lại đất Phú Xuân. Tống Phúc Hợp cho sứ đến xem, Nguyễn Nhạc đưa Đông Cung ra tiếp, rồi viết thư cho sứ đưa về nói lấy nghĩa phù lập Đông Cung, điện an xã tắc, Tống Phúc Hợp tin là thật nên không phòng bị. Nguyễn Nhạc sai Nguyễn Huệ đem quân đánh Tống Phúc Hợp. Quân họ Nguyễn thua to chạy về giữ Vân Phong. Nguyễn Nhạc cho người đưa tin thắng trận cho Hoàng Ngũ Phúc. Ngũ Phúc xin chúa Trịnh phong cho Nguyễn Huệ làm Tây Sơn Hiệu Tiên Phong Tướng Quân.
     Quân Hoàng Ngũ Phúc đóng ở Châu Ổ, giáp đất Quảng Nghĩa, đến tháng chạp năm Ất Tị (1775) bị dịch chết nhiều. Ngũ Phúc xin chúa Trịnh cho rút về giữ Thuận Hóa. Trịnh Sâm thuận cho. Hoàng Ngũ Phúc về đến Phú Xuân thì mất, chúa Trịnh sai Bùi Thế Đạt vào thay và sai Lê Quý Đôn vào làm Tham Thị cùng giữ đất Thuận Hóa. Đất Thuận Hóa từ đất Nam Bố chính trở vào gồm 2 phủ: Triệu Phong và Quảng Bình, 2 huyện, 8 châu. Số nhân đinh được 126.857 người, số ruộng đất 265.508 mẫu, trừ đất rừng và các thứ đi, thì còn 153.181 mẫu phải đóng thuế.
     Khi quân họ Trịnh lui về Thuận Hóa, đất Quảng Nam lại thuộc về Tây Sơn. Năm Bính Thân (1776) Nguyễn Nhạc sai em là Nguyễn Lữ vào đánh Gia Định, lấy được thành Sài Côn. Chúa Nguyễn chạy về Trấn Biên (Biên Hòa). Bấy giờ ở Đông Sơn có Đỗ Thành Nhân khởi binh chống với Tây Sơn lấy lại thành Sài Côn. Nguyễn Lữ lấy thóc gạo rồi rút quân về Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc sai sửa lại thành Đồ Bàn (kinh thành cũ của Chiêm Thành), đến tháng ba năm Bính Thân (1776) tự xưng làm Tây Sơn Vương và phong chức tước cho mọi người. Bấy giờ Tây Sơn đem Đông Cung ra ở chùa Thập Tháp. Đông Cung trốn chạy về Gia Định. Người khách Lý Tài trước đã bỏ Nguyễn Nhạc theo giúp chúa Nguyễn, sau lại làm phản đánh chúa Nguyễn, nay nghe Đông cung trốn về, đem binh rước vào Sài Côn lập làm Tân Chính Vương, tôn Định Vương làm Thái Thượng Vương để lo sự khôi phục.
     Năm Đinh Dậu (1777) Nguyễn Nhạc xin chúa Trịnh cho trấn thủ đất Quảng Nam, Trịnh Sâm phong cho Nguyễn Nhạc làm Quảng Nam trấn thủ, Tuyên Úy đại sứ, Cung Quận Công. Nguyễn Nhạc không cần phòng giữ mặt bắc, sai Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ đem quân vào đánh Gia Định. Lý Tài chống không nổi phải bỏ chạy. Tân Chính Vương chạy về bến Trà (thuộc Định Tường) rồi lại chạy về Ba Vát (thuộc Vĩnh Long), Thái Thượng Vương chạy về Long Xuyên. Chẳng bao lâu Nguyễn Huệ đuổi bắt được giết cả Thái Thượng Vương và Tân Chính Vương.
     Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ lấy xong đất Gia Định, để tổng đốc Chu ở lại trấn thủ, đem quân về Quy Nhơn. Qua năm Mậu Tuất (1778) Nguyễn Nhạc tự xưng đế hiệu, đặt niên hiệu là Thái Đức, gọi thành Đồ Bàn là Hoàng Đế Thành, phong Nguyễn Lữ làm Tiết Chế, Nguyễn Huệ làm Long Nhương Tướng Quân. 
HỌ TRỊNH MẤT NGHIỆP CHÚA
     1. Chúa Trịnh bỏ trưởng lập thứ.
     Từ khi lấy được đất Thanh Hóa, Trịnh Sâm đắc chí và có ý muốn cướp ngôi nhà Lê, bèn sai quan Thị Lang là Vũ Trần Thiệu sang nhà Thanh dâng biểu và tiền của đút lót xin phong làm vua. Đi đến Động Đình Hồ, Vũ Trần Thiệu đem tờ biểu đốt đi, rồi uống thuốc độc tự tử, bởi vậy việc cầu phong bị bỏ.
     Sau Trịnh Sâm say đắm nàng Đặng Thị Huệ, bỏ con trưởng là Trịnh Khải mà lập con của Đặng Thị là Trịnh Cán làm Thế tử. Từ đó người thì theo Đặng Thị, người thì phò Trịnh Khải, trong phủ chúa chia ra bè đảng.
     Tháng 9 năm Nhâm Dần (1782) Trịnh Sâm mất để di chiếu lập Trịnh Cán làm chúa và Huy Quận Công Hoàng Đình Bảo làm phụ chính. Trịnh Cán còn ít tuổi mà lại lắm bệnh, không mấy người chịu phục, bởi vậy cho nên thành sự biến loạn.
     2. Kiêu Binh.
     Từ khi họ Trịnh giúp nhà Lê Trung Hưng về sau, đất Kinh Kỳ chỉ dùng lính Thanh, lính Nghệ gọi là ưu binh để làm quân túc vệ. Những lính ấy thường hay cậy công làm nhiều điều trái phép. Năm Giáp Dần (1674) đời Trịnh Tạc, lính tam phủ tức là lính Thanh- Nghệ giết quan Tham Tụng Nguyễn Quốc Trinh và phá nhà Phạm Công Trứ. Năm Tân Dậu (1741) quân ưu binh lại phá nhà và định giết quan Tham Tụng Nguyễn Quý Cảnh. Những lúc quân ưu binh làm loạn như vậy, tuy nhà chúa có bắt những đứa thủ xướng làm tội nhưng chúng đã quen thói, về sau hễ hơi có điều gì bất bình, thì lại nổi lên làm loạn.
     Đến năm Nhâm Dần (1782) Trịnh Sâm mất, Đặng Thị và Hoàng Đình Bảo lập Trịnh Cán lên làm chúa. Con trưởng Trịnh Sâm là Trịnh Khải mưu với quân tam phủ để tranh ngôi chúa. Bấy giờ có tên biện lại thuộc đội Tiệp bảo tên là Nguyễn Bằng, người Nghệ An, đứng lên làm đầu, vào phủ chúa đánh ba hồi trống làm hiệu, quân ưu binh kéo đến vây phủ, vào giết Hoàng Đình Bảo, bỏ Trịnh Cán và Đặng Thị Huệ, lập Trịnh Khải lên làm Chúa.
     Trịnh Khải phong quan tước cho Nguyễn Bằng và trọng thưởng cho quân tam phủ. Từ đó quân ấy một ngày một kiêu, cứ đi cướp phá các nhà, không ai kiềm chế được. Năm Giáp Thìn (1784) quân tam phủ lại phá nhà quan tham tụng Nguyễn Ly, nhà Dương Khuông và giết Nguyễn Triêm ở trước cửa phủ Chúa. Khi bấy giờ Nguyễn Ly chạy thoát được lên Sơn Tây cùng với em là Nguyễn Điều bàn định rước Trịnh Khải ra ngoài, rồi gọi binh các trấn về trừ kiêu binh. Nhưng sự lộ ra, quân kiêu binh vào canh giữ phủ chúa, Trịnh Khải không ra được. Quân ấy lại chia nhau ra giữ các cửa ô. Quân các trấn cũng sợ chúa bị hại đều phải rút về. Từ đó quân kiêu binh kéo nhau hàng trăm hàng nghìn người đi cướp phá các làng, nếu đi lẻ dân làng bắt được giết đi, thành ra quân với dân xem nhau như cừu địch, mà các văn thần võ tướng cũng bó tay chịu không làm sao được. Sau có quan tham tụng là Bùi Huy Bích dỗ dành mãi mới dần dần yên. Lúc bấy giờ ở trong đang có kiêu binh làm loạn, ở ngoài Tây Sơn nhân dịp đem quân vào đánh phá nên cơ nghiệp họ Trịnh đổ nát.
     3. Tây Sơn lấy Thuận Hóa.
     Khi Hoàng Đình Bảo trấn thủ đất Nghệ An, có nhiều thủ hạ giỏi, trong đó có Nguyễn Hữu Chỉnh người ở huyện Chân Lộc, thuộc Nghệ An, đỗ hương cống từ lúc 16 tuổi, tục gọi là cống Chỉnh, tính hào hoa, lắm cơ trí, nhiều can đảm, mà lại có tài biện bác. Trước theo Hoàng Ngũ Phúc, thường đi đánh giặc bể, giặc sợ lắm, gọi là chim dữ; sau khi Hoàng Ngũ Phúc mất rồi, Hữu Chỉnh về theo Hoàng Đình Bảo. Đến khi kiêu binh đã giết Hoàng Đình Bảo rồi, có người đem tin Hữu Chỉnh biết, Hữu Chỉnh vào bàn với quan trấn thủ Nghệ An là Võ Tá Giao để tự lập ở xứ Nghệ, nhưng Võ Tá Giao sợ không dám làm, Hữu Chỉnh bèn bỏ vào với vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc. Khi trước Nguyễn Hữu Chỉnh theo Hoàng Ngũ Phúc vào đánh Quảng Nam đi lại quen Nguyễn Nhạc nên Nguyễn Nhạc tin dùng, đãi làm thượng tân. Từ đó Nguyễn Hữu Chỉnh bày mưu định kế xin vua Tây Sơn ra đánh Thuận Hóa và đất Bắc Hà. Khi Hoàng Ngũ Phúc mất, Trịnh Sâm sai Bùi Thế Đạt vào trấn thủ đất Thuận Hóa, sau lại thay Phạm Ngô Cầu là người nhu nhược vô mưu, tham lam. Quan phó đốc thị là Nguyễn Lệnh Tân viết thư xin Trịnh Sâm cho tướng khác vào thay nhưng Trịnh Sâm không nghe, lại đòi Nguyễn Lệnh Tân về. Vua Tây Sơn biết đất Thuận Hoá không phòng bị, bèn sai em là Nguyễn Huệ làm tiết chế, rể là Vũ Văn Nhậm làm tả quân đô đốc, Nguyễn Hữu Chỉnh làm hữu quân đô đốc, đem quân thủy bộ ra đánh Thuận Hóa.
     Phạm Ngô Cầu có tính đa nghi. Nguyễn Hữu Chỉnh viết thư giả vờ gửi nhầm làm kế li gián với phó tướng là Hoàng Đình Thể, rủ về hàng Tây Sơn. Khi quân Tây Sơn đến đánh, Hoàng Đình Thể đem quân ra trận bắn hết thuốc đạn. Ngô Cầu đóng cửa thành không ra tiếp ứng. Hoàng Đình Thể cùng hai con và tì tướng là Vũ Tá Kiên đều tử trận.
     Khi quân Tây Sơn kéo đến đánh thành, Phạm Ngô Cầu kéo cờ trắng mở cửa thành ra hàng. Quân họ Trịnh giữ ở các đồn đều tan vỡ bỏ chạy. Trong mấy ngày mà đất Thuận hóa ra đến Linh Giang đều thuộc về Tây Sơn. Bấy giờ là tháng năm năm Bính Ngọ (1786) đời Cảnh Hưng năm thứ 47.
     4. Tây Sơn chấm dứt họ Trịnh.
     Nguyễn Huệ lấy được Thuận Hóa rồi, sai người giải Phạm Ngô Cầu về Qui Nhơn định tội phải chém rồi hội các tướng sai người ra sửa sang đồn Đồng Hới và định giữ địa giới cũ ở sông La Hà. Nguyễn Hữu Chỉnh nói rằng: "Ông phụng mệnh ra đánh một trận mà bình được đất Thuận Hóa, uy kinh cả chốn Bắc Hà. Phàm cái phép dùng binh, một là thời hai là thế ba là cơ, có ba điều đó đánh đâu cũng được. Bây giờ ở đất Bắc Hà tướng thì lười, quân thì kiêu, triều đình không có kỷ cương gì cả, nếu ông nhân lấy cái uy thanh này, đem binh ra đánh thì làm gì mà không được. Ông không nên bỏ mất cái cơ, cái thời và cái thế ấy". Nguyễn Huệ nói rằng: "Ở Bắc Hà có nhiều nhân tài, không nên coi thường". Hữu Chỉnh đáp lại rằng: "Nhân tài Bắc Hà chỉ có một mình Chỉnh, nay Chỉnh đã bỏ đi, thì nước không có ai nữa, xin ông đừng có ngại gì!" Nguyễn Huệ cười mà nói rằng: "Ấy! người khác thì không ngại, chỉ ngại có ông đó thôi!" Hữu Chỉnh thất sắc rồi nói rằng: "Tôi tự biết tài hèn, nhưng mà tôi nói thế là có ý tỏ cho ông biết ngoài Bắc không có nhân tài đó thôi". Nguyễn Huệ lấy lời nói ngọt để yên lòng Hữu Chỉnh và bảo rằng: "Nhà Lê làm vua đã mấy trăm năm nay, bây giờ cướp lấy, chưa chắc lòng người đã theo mình." Hữu Chỉnh nói: "Nay Bắc Hà có Vua lại có Chúa, ấy là một sự cổ kim đại biến. Họ Trịnh tiếng rằng phù Lê, thực ra là hiếp chế, cả nước không ai phục. Vả xưa nay không ai làm gì để giúp nhà Lê, là chỉ sợ cái thế mạnh đó mà thôi, nay ông mà, phù Lê diệt Trịnh thì thiên hạ ai chẳng theo ông." Nguyễn Huệ nói: "Ông nói phải lắm, nhưng ta chỉ phụng mệnh đi đánh đất Thuận Hóa mà thôi, chứ không phụng mệnh đi đánh Bắc Hà, sợ rồi can tội kiểu mệnh thì làm thế nào?" Hữu Chỉnh nói: "Kiểu mệnh là tội nhỏ, việc ông làm là công to. Vả làm tướng ở ngoài có điều không cần phải theo mệnh Vua, ông lại không biết hay sao?".
     Nguyễn Huệ bèn sai Nguyễn Hữu Chỉnh đem thủy binh đi tiên phong vào cửa Đại An đánh lấy kho lương ở bên sông Vị Hoàng. Nguyễn Huệ tự đem binh đi sau, hẹn với Hữu Chỉnh đến sông Vị Hoàng đốt lửa lên làm hiệu. Nguyễn Hữu Chỉnh đem quân đi qua Nghệ An, Thanh Hóa, quan trấn thủ là Bùi Thế Toại và Tạ Danh Thùy không ai dám ra cự địch; khi ra đến Vị Hoàng, quan coi đồn bỏ chạy. Hữu Chỉnh lấy được hơn trăm vạn hộc lương rồi đốt lửa làm hiệu, quân Nguyễn Huệ kéo đến đóng giữ ở đấy.Trước kia thành Phú Xuân đã vỡ rồi, tin báo đến Thăng Long, các quan bàn rằng: xứ ấy không phải là đất của triều đình, bây giờ mất cũng không hại gì. Vì thế, chỉ sai Trịnh Tự Quyền đem 27 cơ vào giữ đất Nghệ An. Trịnh Tự Quyền thu xếp hơn 10 ngày chưa xong, đến khi đi được độ 30 dặm thì đã có tin báo Tây Sơn đến đóng ở sông Vị Hoàng rồi. Tự Quyền bèn đem quân xuống giữ ở mặt Kim Động. Quan trấn thủ Sơn Nam là Bùi Thế Dận đem bộ binh xuống đóng ở xã Phù Sa, thuộc huyện Đông An. Đinh Tích Nhưỡng đem thủy quân ra giữ cửa Luộc. Bấy giờ gió Đông Nam thổi to, đến đêm Nguyễn Huệ sai lấy tượng gỗ để lên trên mấy chiếc thuyền rồi đánh trống kéo cờ thả thuyền cho trôi đi. Đinh Tích Nhưỡng trông thấy tưởng là quân Tây Sơn đến đánh, giàn thuyền ra trận thành chữ nhất, rồi truyền lấy súng mà bắn. Bắn mãi, sau mới biết người trên thuyền là tượng gỗ. Lúc quân Tây Sơn tiến lên đánh, thì Đinh Tích Nhưỡng hết cả thuốc đạn, phải bỏ thuyền mà chạy. Quân của Bùi Thế Dận và Trịnh Tự Quyền cũng tan cả. Nguyễn Huệ hạ được thành Sơn Nam rồi một mặt truyền hịch đi các lộ nói lấy nghĩa phù Lê diệt Trịnh, một mặt kéo quân lên lấy Thăng Long.
     Bấy giờ ở kinh thành quân kiêu binh thì không sai khiến được, mà quân Tây Sơn thì đã đến nơi rồi. Trịnh Khải mới cho gọi Hoàng Phùng Cơ, ở Sơn Tây về, đem quân đóng ở hồ Vạn Xuân (xã Vạn Phú, Thanh Trì) còn thủy binh thì đóng ở bến Tây Long (Thọ Xương) để phòng giữ. Quân Tây Sơn tiến lên đánh tan thủy quân của nhà Trịnh, Hoàng Phùng Cơ phải bỏ chạy. Trịnh Khải mặc áo nhung y cầm cờ lên voi thúc quân vào đánh, nhưng thế Tây Sơn mạnh lắm, đánh không được, Trịnh Khải bỏ chạy lên Sơn Tây. Đi đến làng Hạ Lôi, huyện Yên Lãng, gặp tên Nguyễn Trang đánh lừa bắt đem nộp cho Tây Sơn. Trịnh Khải về đến làng Nhất Chiêu lấy gươm cắt cổ tự tận. Bấy giờ là năm bính ngọ (1786). Nguyễn Huệ cho lấy vương lễ mà tống táng cho chúa Trịnh, rồi vào thành Thăng Long yết kiến vua Lê.
     Họ Trịnh giúp nhà Lê Trung hưng lên, rồi giữ lấy quyền chính, lập ra nghiệp Chúa, lưu truyền từ Trịnh Tùng đến Trịnh Khải được 216 năm (1570- 1786) đến đấy là hết.
NHÀ HẬU LÊ MẤT NGÔI VUA
     1. Tây Sơn rút quân về Nam.
     Nguyễn Huệ đã dứt được họ Trịnh, vào thành Thăng Long, xuống lệnh cấm quân lính không được cướp phá dân gian và định ngày xin yết kiến vua Lê ở đền Vạn Thọ. Bấy giờ vua Hiển Tông đang ốm, không ngồi dậy tiếp được, ngài mời Nguyễn Huệ vào ngồi gần sập ngự, lấy lời ôn tồn mà phủ dụ. Nguyễn Huệ tâu bày cái lẽ đem binh ra phù Lê diệt Trịnh, chứ không dám có ý dòm ngó gì. Vua mừng rỡ mà tạ Nguyễn Huệ.
     Khi quân Tây Sơn ra đến Thăng Long, các quan triều thần chạy trốn cả, chỉ còn có mấy người nội giám ở lại hầu hạ vua. Nguyễn Hữu Chỉnh thấy vậy vào tâu với vua xin xuống chiếu tuyên triệu các quan về triều; được mấy hôm có độ mươi người lục tục kéo nhau trở về. Vua bèn định đến ngày mồng 7 tháng 7 lập đại trào ở điện Kính Thiên, Nguyễn Huệ đem các tướng vào lạy và dâng sổ quân sĩ, dân đinh, để tỏ rõ cái nghĩa tôn phù nhất thống, nghĩa là tự đó về sau nhà Lê có quyền tự chủ.
     Vua phong cho Nguyễn Huệ làm Nguyên Soái Uy Quốc Công và gả con gái là bà Ngọc Hân Công Chúa. Chẳng bao lâu vua Hiển Tông mất, Hoàng Tôn là Duy Kỳ lên nối ngôi, đặt niên hiệu là Chiêu Thống.
     Nguyên lúc trước vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc vốn không có ý ra đánh Bắc Hà, đến khi tiếp được thư của Nguyễn Huệ nói sắp ra đánh ngoài Bắc, Nguyễn Nhạc vội vàng sai người ra Thuận Hóa ngăn lại. Nhưng khi sứ thần ra đến nơi, thì Nguyễn Huệ đã cử binh đi rồi. Sau lại tiếp được thư nói rằng quân Tây Sơn đã lấy được Thăng Long và còn phải ở lại để giúp nhà Lê. Nguyễn Nhạc sợ em ở lâu ngoài Bắc Hà có sự biến, bèn đem 500 quân ra Thuận Hóa, rồi lấy thêm 2.000 quân, đi gấp ngày đêm ra Thăng Long.
     Vua Chiêu Thống được tin vua Tây Sơn ra Bắc, bèn đem bách quan ra đón ở ngoài Nam Giao, nhưng Nguyễn Nhạc cứ đi thẳng, rồi cho người đến nói rằng: xin để ngày khác tiếp kiến. Được mấy hôm Nguyễn Nhạc mời vua Chiêu Thống sang phủ đường làm lễ tương kiến. Nguyễn Nhạc ngồi giữa, vua Chiêu Thống ngồi bên tả, Nguyễn Huệ ngồi bên hữu, các quan văn võ đứng hầu hai bên.
     Khi vào làm lễ xong rồi, vua Chiêu Thống xin nhường mấy quận để khao quân. Nguyễn Nhạc nói rằng: "Vì họ Trịnh hiếp chế, cho nên chúng tôi ra giúp nhà vua; nếu bằng đất nước họ Trịnh thì một tấc cũng không để lại, nhưng mà của nhà Lê thì một tấc cũng không dám lấy. Xin mong nhà vua gắng sức làm việc, giữ yên cõi đất, để đời đời giao hiếu với nhau, ấy là cái phúc của hai nước đấy." Đoạn rồi vua Chiêu Thống về điện, hôm sau anh em Tây Sơn bàn rút quân về Nam, và thấy Nguyễn Hữu Chỉnh là người giảo quyệt, định bỏ lại ở Bắc Hà, bèn mật truyền cho các tướng thu xếp quân thủy bộ, kho tàng có gì lấy hết, rồi đến nửa đêm ngày 17 tháng 8, kéo quân về Nam. Sáng hôm sau Nguyễn Hữu Chỉnh biết Tây Sơn về rồi, sợ hãi lắm, hoảng hốt bỏ cả đồ đạc, chạy xuống chiếc thuyền buôn vào Nghệ An, theo vua Tây Sơn. Nguyễn Nhạc thấy Hữu Chỉnh lại theo về, không nỡ bỏ, cho ở lại cùng với Nguyễn Duệ giữ đất Nghệ An.
     Bấy giờ quyền bính ở đất Bắc Hà về cả vua nhà Lê, thật là một cơ hội ít có để lập lại cái nền tự chủ của nhà Lê, nhưng tiếc vì vua Chiêu Thống không có tài quyết đoán, mà đình thần lúc bấy giờ không có ai là người biết kinh luân: hễ thấy có giặc thì bỏ chạy, giặc đi rồi thì kéo nhau ra bàn ngược bàn xuôi, người thì định lập lại nghiệp chúa, kẻ thì muốn tôn phù nhà vua. Lại có dòng dõi họ Trịnh là Trịnh Lệ và Trịnh Bồng chia đảng ra đánh nhau để tranh quyền. Vua Chiêu Thống bất đắc dĩ phải phong cho Trịnh Bồng làm Án Đô Vương, lập lại phủ Chúa. Đảng họ Trịnh lại toan đường hiếp chế nhà vua, vua Chiêu Thống phải xuống mật chiếu vời Nguyễn Hữu Chỉnh ra giúp.
     2. Nguyễn Hữu Chỉnh chuyên quyền ở đất Bắc.
     Nguyễn Hữu Chỉnh từ khi trở về Nghệ An, chiêu mộ dũng sĩ, ngày đêm luyện tập, nhân có chiếu nhà vua gọi vào, bèn thu xếp được hơn một vạn quân ra giúp vua Lê. Trịnh Bồng đem quân ra chống giữ, đánh thua phải bỏ chạy. Hữu Chỉnh vào yết kiến vua Chiêu Thống và chuyên giữ binh quyền. Trịnh Bồng có khởi binh mấy lần để toan sự khôi phục, nhưng không thành công, cho nên cũng chán sự đời bèn bỏ đi tu, về sau không biết chết ở đâu. Họ Trịnh mất từ đấy.
     Nguyễn Hữu Chỉnh đánh đuổi họ Trịnh đi rồi, vua phong cho chức Đại Tư Đồ Bằng Trung Công. Từ đó Hữu Chỉnh cậy công khinh người, làm lắm điều trái phép, vua cũng lấy làm lo. Nhưng không biết trông cậy vào ai, cho nên đành phải chịu vậy.
     3. Tây Sơn lấy đất Bắc Hà.
     Ở trong Nam thì từ khi vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc về Quy Nhơn rồi, tự xưng làm Trung ương Hoàng Đế, phong cho Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương ở đất Gia Định, cho Nguyễn Huệ làm Bắc Bình Vương, ở đất Thuận Hóa, lấy Hải Vân Sơn làm giới hạn. Được ít lâu Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ có chuyện hiềm khích với nhau, Nguyễn Huệ đem binh vào vây đánh thành Qui Nhơn, ngặt đến nỗi Nguyễn Nhạc phải thân lên thành mà kêu khóc, gọi Nguyễn Huệ mà bảo rằng: "Nỡ lòng nào lại nồi da nấu thịt như thế". Nguyễn Huệ động lòng mới giải vây rút quân về Thuận Hóa.
     Trong khi anh em Tây Sơn đánh nhau, thì Nguyễn Hữu Chỉnh ra Bắc Hà, đến khi anh em Tây Sơn đã giảng hòa rồi, Nguyễn Huệ ở Phú Xuân thấy Hữu Chỉnh lừng lẫy ở đất Bắc, bèn sai Vũ Văn Nhậm ra bắt. Tháng 11 năm Đinh Tị (1787) Vũ Văn Nhậm phá quân Nguyễn Hữu Chỉnh ở Thanh Quyết Giang (huyện Gia Viễn), và ở Châu Cầu (phủ Lý Nhân) rồi đánh đuổi ra đến Thăng Long. Vua Chiêu Thống thấy quân của Nguyễn Hữu Chỉnh đã thua rồi, bèn bỏ Kinh đô, chạy sang Kinh bắc, sai Lê Quýnh cùng hơn 30 người tôn thất đem bà Hoàng Thái Hậu, bà Hoàng Phi và Hoàng Tử lên Cao Bằng. Còn vua thì cùng với Hữu Chỉnh về đóng ở núi Mục Sơn ở đất Yên Thế. Tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Hòa đem binh lên đánh bắt được Hữu Chỉnh đem về làm tội ở Thăng Long. Vũ Văn Nhậm giết Nguyễn Hữu Chỉnh rồi, cho đi tìm vua Chiêu Thống không được, bèn tôn Sùng Nhượng Công tên là Lê Duy Cẩn lên làm giám quốc để thu phục lòng người.
     Bấy giờ các quan không ai theo, Sùng Nhượng Công ở trong điện chỉ có vài người hoàng thân và mấy viên võ tướng, sớm tối hầu hạ, còn thì không ai tâu hỏi việc gì cả. Ngày ngày cứ đi bộ sang chầu chực bên dinh Vũ Văn Nhậm. Văn Nhậm cũng không biết xử làm sao. Người kinh thành thấy vậy gọi Sùng Nhượng Công là thầy đề lại giám quốc. Khi Bắc Bình Vương Nguyễn Huệ sai Vũ Văn Nhậm ra đánh Nguyễn Hữu Chỉnh thì đã có lòng nghi Vũ Văn Nhậm, cho nên lại sai Ngô Văn Sở và Phan Văn Lân làm tham tán quân vụ để chia bớt binh quyền. Đến khi Văn Nhậm lấy được Thăng Long, bắt được Hữu Chỉnh rồi, có ý cậy tài và ra bộ kiêu ngạo. Ngô Văn Sở đem ý ấy viết thư về nói Vũ Văn Nhậm muốn làm phản. Bắc Bình Vương lập tức truyền lện kéo quân kỵ, đêm ngày đi gấp đường ra Thăng Long, nửa đêm đến nơi bắt Vũ Văn Nhậm giết đi, rồi truyền gọi các quan văn võ nhà Lê cho vào yết kiến, đặt quan lục bộ và các quan trấn thủ, để Lê Duy Cẩn làm giám quốc, chủ trương việc tế lễ, dùng Ngô Thời Nhậm làm Lại Bộ Tả Thị Lang. Còn các quan nhà Lê thì có người ở lại nhận chức, có người trốn đi, cũng có người tuẩn tiết. Bắc Bình Vương đã đổi đặt quan quân, chỉnh đốn mọi việc xong, chọn ngày về Nam, để bọn Ngô Văn Sở ở lại giữ đất Bắc Hà.
     Vua Chiêu Thống thua trận Mục Sơn chạy về núi Bảo Lộc, nay ở Hải Dương, mai ở Sơn Nam, cùng với mấy người trung nghĩa lo sự khôi phục, nhưng vì thế lực mỗi ngày một kém, bề tôi như bọn Đinh Tích Nhưỡng thì giở mặt làm phản, còn thì ai nấy đều trốn tránh, bởi thế cho nên cơ nghiệp nhà Lê đổ nát. Nhà Lê kể từ vua Thái Tổ khởi nghĩa, đánh đuổi quân nhà Minh về Tàu, lập lại nền tự chủ cho nước nhà, truyền đến vua Chiêu Tông thì họ Mạc cướp mất ngôi. Sau nhờ có họ Nguyễn và họ Trịnh giúp đỡ, nhà Hậu Lê trung hưng lên, truyền đến vua Chiêu Thống tức là Mân Đế thì hết.
     Nhà Lê làm vua, kể cả Tiền Lê và Hậu Lê, được 360 năm (1428- 1788), trước sau sửa sang được nhiều việc: sự học hành, việc luật pháp, việc canh nông đều được mở mang hơn trước. Nhưng từ khi trung hưng trở về sau nhà vua bị họ Trịnh hiếp chế thành ra có Vua lại có Chúa. Vua ngồi làm vì, Chúa giữ cả quyền chính trị. Đến khi nghiệp Chúa suy thì ngôi Vua cũng đổ.

NHÀ NGUYỄN TÂY SƠN
     1. Nhà Nguyễn Tây Sơn dấy nghiệp.
     Nguyên nước ta là nước quân chủ, lấy cái nghĩa vua tôi làm trọng, thế mà từ khi nhà Lê Trung hưng về sau, họ Nguyễn hùng cứ phương Nam, họ Trịnh xưng Chúa miền Bắc; trên tuy còn tôn Vua nhưng mà quyền về nhà Chúa. Nước đã có Vua lại có Chúa, thành ra Vua không phải là Vua, tôi không phải là tôi, ấy là một thời loạn. Đến sau ở trong Nam thì có Trương Phúc Loan chuyên quyền làm bậy, ở ngoài Bắc thì có kiêu binh làm loạn, giết hại quan đại thần, vua chúa phải nhún mình mà chiều đãi, đình thần phải khoanh tay mà chịu một bề, ấy lại là một thời đại loạn vậy.
     Lúc ấy anh em Nguyễn Nhạc là người dân mặc áo vải, dấy binh ở ấp Tây Sơn, chống nhau với chúa Nguyễn để lập nghiệp ở đất Quy Nhơn. Tuy rằng đối với họ Nguyễn là cừu địch, nhưng mà đối với nước Nam là một người Anh hùng lập thân trong lúc biến loạn. Còn như Nguyễn Huệ là vua Thái Tổ nhà Nguyễn Tây Sơn, thì trước giúp anh bốn lần vào Gia Định đều được toàn thắng, phá hai vạn quân hùm beo của Tiêm La, chỉ còn được mấy trăm người lủi thủi chạy về nước; sau lại ra Bắc Hà, dứt họ Trịnh; tôn vua Lê, đem lại mối cương thường. Ấy là đã có sức mạnh mà lại biết làm việc nghĩa vậy. Nhưng vì vua Lê nhu nhược, triều thần lúc bấy giờ không ai có tài kinh luân, lại để cho Trịnh Bồng và Nguyễn Hữu Chỉnh nối nhau chuyên quyền, đến nỗi thành ra tán loạn. Dẫu thế mặc lòng, khi Nguyễn Huệ giết Vũ Văn Nhậm rồi, không nỡ dứt nhà Lê, đặt Giám Quốc để giữ tông miếu tiền triều; như thế thì cách ở với nhà Lê không lấy gì làm bạc. Sau vua Chiêu Thống và bà Hoàng Thái Hậu sang kêu cầu bên Tàu, vua nhà Thanh nhân dịp ấy mượn tiếng cứu nhà Lê để lấy nước Nam, bèn sai binh tướng sang giữ thành Thăng Long. Bấy giờ cứ theo như tờ mật dụ của vua nhà Thanh thì nước Nam ta, bề ngoài tuy chưa mất hẳn, nhưng kỳ thật đã vào tay người Tàu rồi.
     Nước đã mất, thì phải lấy lại, ông Nguyễn Huệ mới lên ngôi Hoàng Đế, truyền hịch đi các nơi, đường đường chính chính, đem quân ra đánh một trận phá 20 vạn quân Tàu, tướng nhà Thanh là Tôn Sĩ Nghị phải bỏ cả ấn tín mà chạy, làm cho vua tôi nước Tàu khiếp sợ, tướng sĩ nhà Thanh thất đảm. Tưởng từ xưa đến nay nước ta chưa có võ công nào lẫm liệt như vậy. Vả đánh đuổi người Tàu đi lấy nước lại mà làm vua thì có điều gì mà trái đạo? Há lại chẳng hơn nhà Lý, nhà Trần nhân lúc ấu quân, nữ chúa, mà làm sự thoán đoạt hay sao? Vậy thì lấy lẽ gì mà gọi là ngụy? Huống chi sau vua nhà Thanh cũng công nhận cho ông Nguyễn Huệ làm vua nước Nam, và lại sai sứ sang phong cho ông làm An Nam Quốc vương theo như lệ các triều trước, như thế thì nhà Nguyễn Tây Sơn mở nước có khác gì nhà Đinh và nhà Lê không?
     Tuy rằng chẳng được bao lâu nhà Nguyễn Tây Sơn sinh ra nội loạn, vua Thế Tổ Cao Hoàng nhà Nguyễn lại thu phục được cơ nghiệp cũ mà nhất thống cả nam bắc làm một, nhưng việc thành bại hưng vong là mệnh trời, vả lại khi hai người anh hùng đuổi một con hươu, tất là người nọ gọi người kia là cừu địch. Lấy lẽ tôn bản triều mà xét thì nhà Nguyễn Tây Sơn là ngụy, mà lấy công lý mà suy thì vua Quang Trung Nguyễn Huệ là một ông vua đứng ngang vai với vua Đinh Tiên Hoàng, vua Lê Thái Tổ, mà nhà Nguyễn Tây Sơn cũng là một nhà chính thống như nhà Đinh và nhà Lê.
     2. Vua Quang Trung (1788-1792).
     Ông Nguyễn Huệ (sau đổi tên là Nguyễn Quang Bình) là một người có sức khỏe tuyệt trần, lại có mưu trí quyền biến, mẹo mực như thần, khởi binh ở đất Tây Sơn (thuộc huyện An Khê, Bình Định) giúp anh là Nguyễn Nhạc lập nên nghiệp lớn, được phong làm Bắc Bình Vương, đóng đô ở đất Phú Xuân. Năm Mậu Thân (1788) quân nhà Thanh mượn tiếng sang cứu nhà Lê, chiếm giữ thành Thăng Long, có ý muốn lấy đất An Nam, Bắc Bình Vương lên ngôi Hoàng Đế đặt niên hiệu là Quang Trung, rồi đem binh đi đánh giặc.
     3. Tôn Sĩ Nghị đem quân sang An Nam.
     Vua Chiêu Thống đã mấy lần toan khôi phục không được, phải nương náu ở đất Lạng Giang; còn bà Hoàng Thái Hậu thì đem hoàng tử sang Long Châu kêu van với quan Tàu, xin binh cứu viện. Bấy giờ quan tổng đốc Lưỡng Quảng là Tôn Sĩ Nghị dâng biểu tâu với vua Càn Long nhà Thanh, đại lược nói rằng: "Họ Lê là cống thần nước Tàu, nay bị giặc lấy mất nước, mẹ và vợ Tự quân sang cầu cứu, tình cũng nên thương. Vả nước Nam vốn là đất cũ của nước Tàu, nếu sau khi cứu được nhà Lê lại lấy được đất An Nam, thực là lợi cả đôi đường." Vua Càn Long nghe lời tâu ấy sai Tôn Sĩ Nghị khởi quân 4 tỉnh Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam sang đánh Tây Sơn. Tôn Sĩ Nghị chia quân làm 3 đạo, sai quan tổng binh tỉnh Vân Nam và Quý Châu đem một đạo sang mạn Tuyên Quang, Sầm Nghi Đống là tri phủ Điền Châu đem một đạo sang mạn Cao Bằng. Sĩ Nghị cùng với đề đốc là Hứa Thế Hanh đem một đạo sang mạn Lạng Sơn, hẹn ngày tiến binh sang đánh An Nam. Tướng Tây Sơn là Ngô Văn Sở ở Thăng Long được tin quân Tàu sang, sợ thế yếu đánh không nổi, bèn rút quân về đóng giữ từ núi Tam Điệp ra đến bờ bể, rồi sai người về Phú Xuân cáo cấp.
     Tôn Sĩ Nghị kéo quân đến Kinh Bắc (Bắc Ninh), vua Chiêu Thống ra chào mừng rồi theo quân Tàu về Thăng Long. Sĩ Nghị đóng đồn ở giữa bãi, mé nam sông Nhị Hà, bắc cầu phao qua sông để tiện đi lại rồi chia quân ra giữ các mặt. Ngày hôm sau, Sĩ Nghị làm lễ tuyên đọc tờ sắc của vua nhà Thanh phong cho vua Chiêu Thống làm An Nam Quốc Vương.
     Vua Chiêu Thống tuy đã thụ phong, nhưng các tờ văn thư đều phải đề niên hiệu Càn Long. Mỗi khi buổi chầu xong rồi, lại đến dinh Sĩ Nghị để chầu chực việc cơ mật quân quốc. Vua cưỡi ngựa đi với độ mười người lính hầu. Tôn Sĩ Nghị thì ngạo nghễ, tự đắc, ý tứ xử với vua rất là khinh bạc; có khi vua Chiêu Thống lại hầu, không cho vào yết kiến, chỉ sai một người đứng dưới gác chiêng truyền ra rằng: không có việc quân quốc gì, xin ngài hãy về cung nghỉ. Người bấy giờ bàn riêng với nhau: "Nước Nam ta từ khi có đế vương đến giờ, không thấy vua nào hèn hạ đến thế. Tiếng là làm vua mà phải theo niên hiệu vua Tàu, việc gì cũng phải bẩm đến quan Tổng Đốc, thế thì có khác gì đã là nội thuộc rồi không?"
     Vua và triều thần bấy giờ việc gì cũng trông cậy vào Tôn Sĩ Nghị; ngày đêm chỉ lo việc báo ân báo oán, giết hại những người trước đã đi theo Tây Sơn. Tôn Sĩ Nghị thì càng ngày càng kiêu ngạo, coi việc binh làm thường, lại thả quân lính ra cướp phá nhân dân. Vì thế nên lòng người oán giận.
     4. Vua Quang Trung đại phá quân Thanh.
     Bắc Bình Vương được tin quân nhà Thanh sang đóng ở Thăng Long, lập tức hội các tướng sĩ để bàn việc đem binh ra đánh, các tướng đều xin hãy chính ngôi tôn, để yên lòng người rồi sẽ khởi binh. Bắc Bình Vương bèn sai đắp đàn ở núi Bàn Sơn, ngày 25 tháng 11 năm Mậu Thân (1788), Vương làm lễ lên ngôi Hoàng Đế, rồi tự mình thống lĩnh đại binh đi đánh giặc Thanh. Ra đến Nghệ An nghỉ lại 10 ngày để kén thêm binh, cả thảy được 10 vạn quân và hơn 100 con voi. Vua Quang Trung điểm duyệt quân sĩ, truyền dụ mọi người phải cố gắng đánh giặc giúp nước. Đoạn rồi kéo quân ra Bắc, đến ngày 20 tháng chạp thì đến núi Tam Điệp. Các quan Ngô Văn Sở, Ngô Thì Nhiệm đều ra tạ tội, kể chuyện quân Tàu thế mạnh, sợ đánh không nổi, cho nên phải lui về giữ chỗ hiểm yếu.
     Vua Quang Trung cười mà nói rằng: "Chúng nó sang phen này là mua cái chết đó thôi. Ta ra chuyến này thân coi việc quân đánh giữ, đã định mẹo rồi, đuổi quân Tàu về chẳng qua 10 ngày là xong việc. Nhưng chỉ nghĩ chúng là nước lớn gấp 10 nước ta, sau khi chúng thua một trận rồi, tất chúng lấy làm xấu hổ, lại mưu báo thù, như thế thì đánh nhau mãi không thôi, dân ta bị hại nhiều, ta sao nỡ thế. Vậy đánh xong trận này, ta phải nhờ Thì Nhiệm dùng lời nói cho khéo để đình chỉ việc chiến tranh. Đợi mươi năm nữa, nước ta dưỡng được sức phú cường rồi, thì ta không cần phải sợ chúng nữa."
     Vua Quang Trung truyền cho tướng sĩ ăn tết Nguyên Đán trước, để đến hôm trừ tịch thì cất quân đi, định ngày mồng 7 tháng giêng thì vào thành Thăng Long mở tiệc ăn mừng. Đoạn rồi, truyền lệnh cho ba quân đến nghe mệnh lệnh.
     Đại tư mã Sở, Nội Hầu Lân đem tiền quân đi tiên phong. Hô Hổ Hầu đem hậu quân đi đốc chiến. Đại đô đốc Lộc, Đô đốc Tuyết đem hữu quân cùng thủy quân, vượt bể vào sông Lục Đầu. Tuyết thì kinh lược mặt Hải Dương, tiếp ứng đường mé đông; Lộc thì kéo về vùng Lạng Giang, Phượng Nhỡn, Yên Thế để chặn đường quân Tàu chạy về. Đại đô đốc Bảo, đô đốc Mưu đem tả quân cùng quân tượng mã đi đường núi ra đánh phía tây. Mưu thì xuyên ra huyện Chương Đức (nay là Chương Mỹ), tiện đường kéo thẳng đến làng Nhân Mục, huyện Thanh Trì, đánh quân Điền Châu; Bảo thì thống suất quân tượng mã theo đường huyện Sơn Lãng ra làng Đại Áng thuộc huyện Thanh Trì tiếp ứng cho mặt tả.
     Năm quân được lệnh đều thu xếp đâu đấy, đến hôm 30 khua trống kéo ra Bắc. Khi quân sang sông Giản Thủy, cánh nghĩa quân của nhà Lê tan vỡ chạy cả. Vua Quang Trung thân đốc các quân đuổi theo đến huyện Phú Xuyên bắt sống hết được toán quân Tàu đóng ở đấy, không một người nào chạy thoát được, vì thế nên không có tin báo về, quân Tàu đóng ở làng Hà Hồi và Ngọc Hồi không biết gì cả. Nửa đêm ngày mồng 3 tháng giêng năm Kỷ Dậu (1789) quân vua Quang Trung đến làng Hà Hồi vây kín đồn giặc, bắc loa lên gọi, các quân dạ rầm cả lên, có hàng muôn người. Quân canh đồn bấy giờ mới biết, sợ hãi thất thố, đều xin hàng, bởi thế, lấy được hết cả quân lương và đồ khí giới. Sáng ngày mồng năm, quân Tây Sơn tiến lên đến làng Ngọc Hồi, quân Tàu bắn súng ra như mưa. Vua Quang Trung sai người lấy những mảnh ván, ghép ba mảnh lại làm một, lấy rơm cỏ giấp nước quấn ở ngoài, rồi sai quân kiêu dũng cứ 20 người khiêng một mảnh, mỗi người dắt một con dao nhọn, lại có 20 người cầm khí giới theo sau. Vua Quang Trung cưỡi voi đi sau đốc chiến, quân An Nam vào đến gần cửa đồn, bỏ ván xuống đất, rút dao ra, xông vào chém, quân đi sau cũng kéo ùa cả vào đánh. Quân Tàu địch không nổi, xôn xao tán loạn, xéo lẫn nhau mà chạy. Quân Nam thừa thế đánh tràn đi, lấy được các đồn, giết quân Thanh thây nằm ngổn ngang khắp đồng, máu chảy như tháo nước. Quân các đạo khác cũng toàn thắng. Quan nhà Thanh là đề đốc Hứa Thế Hanh, tiên phong Trương Sĩ Long, tả dực Thượng Duy Thăng đều tử trận; quan phủ Điền Châu là Sầm Nghi Đống đóng ở Đống Đa bị quân An Nam vây đánh cũng thắt cổ mà chết. Tôn Sĩ Nghị nửa đêm được tin báo, hoảng hốt không kịp thắng yên ngựa và mặc áo giáo, đem mấy tên lính kỵ chạy qua sông sang Bắc. Quân các trại nghe tin như thế, xôn xao tan rã chạy trốn, tranh nhau sang cầu, một lát cầu đổ, sa cả xuống sông chết đuối, sông Nhị Hà đầy những thây người chết. Vua Chiêu Thống cũng theo Tôn Sĩ Nghị sang sông cùng với bà Hoàng Thái Hậu và mấy người cận thần chạy sang Tàu. Đạo quân Vân Nam và Quý Châu đóng ở miền Sơn Tây nghe tin Tôn Sĩ Nghị đã thua, cũng rút quân chạy về.
     Ngày hôm ấy vua Quang Trung đốc quân đánh giặc, áo ngự bào bị thuốc súng bắn vào đen như mực. Đến trưa thì vào thành Thăng Long, sai tướng đem binh đuổi đánh quân Thanh đến cửa Nam Quan. Những người dân Tàu ở Lạng Sơn khiếp sợ, đàn ông, đàn bà dắt díu nhau chạy sang Tàu.
     Vua Quang Trung vào thành Thăng Long, hạ lệnh chiêu an, phàm những người Tàu trốn tránh ra thú tội đều được cấp cho áo mặc, lương ăn. Lại bắt được cả ấn tín của Tôn Sĩ Nghị bỏ lại, trong đó có tờ mật dụ của vua Càn Long nói rằng: "Việc quân nên từ đồ, không nên hấp tấp. Hãy nên đưa hịch truyền thanh thế đi trước, và cho các quan nhà Lê về nước cũ hợp nghĩa binh, tìm tự quân nhà Lê đem ra đứng đầu để đối địch với Nguyễn Huệ, thử xem sự thể thế nào. Nếu lòng người nước Nam còn nhớ nhà Lê, có quân ta kéo đến, ai là chẳng gắng sức. Nguyễn Huệ tất phải tháo lui; ta nhân lấy dịp ấy mà sai Tự quân đuổi theo, rồi đại binh của ta theo sau, như thế không khó nhọc mấy nỗi mà nên được công to, đó là mẹo hay hơn cả. Ví bằng suốt người trong nước, nửa theo đằng nọ, nửa theo đằng kia, thì Nguyễn Huệ tất không chịu lui. Vậy ta hãy đưa thư sang tỏ bảo đường họa phúc xem nó đối đáp làm sao. Đợi khi nào thủy quân ở Mân, Quảng đi đường bể sang đánh mặt Thuận Hóa và Quảng Nam rồi, bộ binh sẽ tiến lên sau. Nguyễn Huệ trước sau bị địch, thế tất phải chịu thua. Bấy giờ ta sẽ nhân mà làm ơn cho cả hai bên; tự đất Thuận Hóa Quảng Nam trở vào Nam, thì cho Nguyễn Huệ; tự châu Hoan, châu Ái trở ra Bắc thì phong cho Tự quân nhà Lê. Ta đóng đại binh lại để kiềm chế cả hai bên, rồi sẽ có xử trí về sau".
     Vua Quang Trung đem tờ mật dụ ấy bảo với Ngô Thì Nhiệm rằng: "Ta xem tờ chiếu của vua nhà Thanh chẳng qua cũng muốn mượn tiếng để lấy nước ta đó thôi. Nay đã bị ta đánh thua một trận, tất là lấy làm xấu hổ, chắc không chịu ở yên. Hai nước mà đánh nhau thì chỉ khổ dân. Vậy nên dùng lời nói khéo, để khiến cho khỏi sự binh đao; việc ấy nhờ nhà người chủ trương cho mới được". Ngô Thì Nhiệm vâng lệnh làm thư nói rằng: "Nước Nam vốn không dám chống cự với đại quốc, nhưng chỉ vì Tôn Sĩ Nghị làm nhỡ việc cho nên phải thua. Vậy nay xin tạ tội và xin giảng hòa."
     Vua Quang Trung sai sứ đem thư sang Tàu, sai đem những quân nhà Thanh bắt được, để ở một nơi, cấp cho lương thực, đợi ngày cho về nước. Xếp đặt mọi việc xong rồi, đem quân về Nam, lưu Ngô Văn Sở và Phan văn Lân ở lại tổng thống các việc quân quốc; còn những việc từ lệnh giao thiệp với nước Tàu thì ủy thác cho Ngô Thì Nhiệm và Phan Huy Ích cho được tự tiện mà khu xử.
     5. Vua Quang Trung cầu phong.
     Vua nhà Thanh nghe tin Tôn Sĩ Nghị bại binh, nổi giận đùng đùng, lập tức giáng chỉ sai quan nội các là Phúc Khang An ra thay Sĩ Nghị làm tổng đốc Lưỡng Quảng, đem binh mã 9 tỉnh, sang kinh lý việc An Nam. Phúc Khang An ra đến Quảng Tây nghe tiếng quân An Nam thế mạnh trong bụng đã sợ, có ý muốn hòa, bèn sai người đưa thư sang nói việc lợi hại và bảo phải làm biểu tạ tội để cho yên việc binh đao. Vua Quang Trung bèn cho người đưa vàng bạc sang đút lót cho Khang An, rồi sai người cháu là Nguyễn Quang Hiển và Vũ Huy Tấn đem đồ cống phẩm sang Yên Kinh vào chầu vua nhà Thanh và dâng biểu xin phong.
     Bấy giờ quan ngoài thì có Phúc Khang An đề đạt giúp đỡ, quan trong thì có các thần là Hòa Thân chủ trương, nên vua nhà Thanh mới thuận cho giảng hòa. Hòa Thân được tiền bạc của vua Quang Trung đút lót, rồi dùng lời nói khéo, điều gì cũng hợp ý vua nhà Thanh. Vua nhà Thanh bèn sai sứ sang phong cho vua Quang Trung làm An Nam Quốc Vương, lại giáng chỉ vời quốc vương vào chầu.
     Vua Quang Trung chọn một người hình dung giống mình, tên là Phạm Công Trị trá làm quốc vương, sai Ngô Văn Sở, Đặng Văn Chân, Phan Huy Ích, Võ Huy Tấn đưa sang Yên Kinh vào chầu Càn Long. Ngoài những phẩm vật đem cống, vua Quang Trung đem cống thêm đôi tượng đực, làm cho các cung trạm ở dọc đường bên Tàu phải phục dịch đưa đón thật là vất vả. Quan Tổng Đốc Lưỡng Quảng là Phúc Khang An và quan Tuần phủ Quảng Tây là Tôn Vĩnh Thanh phải đưa Quốc Vương An Nam vào Kinh.
     Sang đến Yên Kinh, vua Càn Long nhà Thanh tưởng là Nguyễn Quang Trung thật, vời đến chầu ở Nhiệt Hà, cho vào làm lễ ôm gối, như là tình cha con một nhà, và cho ăn yến với các thân vương. Đến lúc về nước, vua lại sai thợ vẽ làm một bức ảnh truyền thần ban cho ân lễ thật là hậu.
     Vua Chiêu Thống theo Tôn Sĩ Nghị vào thành Nam Kinh ở Quảng Tây, được ít lâu thì vua nhà Thanh sai các thần là Phúc Khang An ra thay Tôn Sĩ Nghị. Khang An muốn giảng hòa với Tây Sơn, bèn mời vua Chiêu Thống về Quế Lâm. Bấy giờ những quan cựu thần nhà Lê là: Hoàng thúc Lê Duy Án, Đinh Nhạ Hành, Đinh Lịnh Dận, Trần Huy Lâm, Lê Doãn, Lê Dĩnh, Phan Khải Đức, Bế Nguyễn Cung, Bế Nguyễn Doãn, đều lục tục sang theo vua Chiêu Thống, vào ra mắt Khang An.
     Khang An dùng Đinh Nhạ Hành làm chức thủ bị Toàn Châu, Phan Khải Đức làm chức đô tư Liễu Châu, còn thì tùy tiện an trí mỗi người một nơi. Duy chỉ có Lê Duy Án, Trần Huy Lâm, Lê Doãn, Lê Dĩnh về Quế Lâm theo vua nhà Lê.
     Tháng tư năm Kỷ Dậu (1789), vua tôi nhà Lê vào thành Quế Lâm, Khang An nói thác ra bảo với vua Chiêu Thống rằng: Trời đang mùa hè nắng nóng, sang đánh phương nam không tiện, nên để đến mùa thu mát mẻ sẻ khởi binh. Vậy nhà vua nên gióng giả dần bọn tướng thuộc đi trước. Nhưng nhà vua hãy nên gọt đầu thay áo, làm như dáng người Tàu, để khi về nước, giặc không nhận được mặt. Việc hành binh phải nên biến trá, đợi khi thành công rồi lại theo tục nước mà ăn mặc. Vua Chiêu Thống không ngờ là Khang An đánh lừa mình, bèn cùng với các quan cạo đầu gióc tóc và đổi y phục. Phúc Khang An làm biểu tâu với vua nhà Thanh rằng: "Vua nước Nam là Lê Duy Kỳ không có ý xin viện binh nữa, vua tôi hiện đã gióc tóc, thay áo, xin yên tâm ở lại nước Tàu. Vậy xin bãi binh đánh An Nam". Ở trong lại có Hòa Thân tán thành, bởi vậy vua nhà Thanh mới xuống chỉ bãi binh.
     Vua nhà Thanh nghe lời bọn Phúc Khang An và Hòa Thân, phong vương cho vua Quang Trung rồi giáng chỉ triệu vua tôi nhà Lê về Yên Kinh. Bọn Lê Quýnh, Trịnh Hiến cả thảy đến 10 người sau cũng bị Phúc Khang An gọi về Quảng Tây bắt đổi áo gióc tóc như mọi người. Lê Quýnh nói rằng: "Ông cho gọi chúng tôi đến chẳng bàn được điều gì, lại dỗ chúng tôi đổi áo, gióc tóc, ấy là nghĩa gì? Đầu chúng tôi có thể chặt được, chứ tóc không gióc, da có thể lột được, chứ áo không đổi!". Phúc Khang An tức giận cho giải cả về Yên Kinh, đi đến Sơn Đông gặp vua Càn Long đi chơi, vua đòi vào hỏi sao vua An Nam đã chịu đổi áo gióc tóc theo nhà Thanh mà bọn ấy lại còn không chịu ? Lê Quýnh tâu rằng: " Chúng tôi muôn dặm tòng vong, xin cứ theo tục bản quốc vào ra mắt quốc vương, rồi sau sẽ vâng chỉ" Vua nhà Thanh khen là trung. Nhưng về sau Lê Quýnh không chịu gióc tóc, chiếu tội vi mệnh phải giam mãi.
     Mùa xuân năm Canh Tuất (1790), vua Chiêu Thống cùng với các quan tòng vong vào kinh. Vua Càn Long để vua Chiêu Thống, bà Thái Hậu và Hoàng Tử ở ngõ Hồ Đồng, Tòa Quốc Tử Giám, cửa Tây Định ở Yên Kinh, ngoài cửa đề chữ "Tây An Nam Dinh". Còn các quan An Nam đi theo, thì cho ở ngõ Hồ Đồng, cửa Đông Trực, ngoài cửa đề chữ: "Đông An Nam Dinh". Vua Chiêu Thống đến Yên Kinh được mấy hôm, thì thấy quan Đô Thống Nhương Hoàng Kỳ là Kim Giản phụng chỉ vua nhà Thanh ra phong cho chức Tá Lĩnh, và ban cho áo mão quan tam phẩm. Còn các quan đi theo thì cấp cho mỗi người ba lạng bạc và một thạch gạo.
     Vua Chiêu Thống giận vì bị người Tàu đánh lừa, bèn cùng với bề tôi là bọn Phạm Như Tùng, Hoàng Ích Hiển, Lê Hân, Nguyễn Quốc Đống, Nguyễn Viết Triệu, Lê Quý Thích, Nguyễn Đình Miên, Lê Văn Trương, Lê Tùng, Lê Thức uống máu ăn thề, định sống chết thế nào thì cũng dâng biểu xin binh cứu viện. Nếu không cho thì xin đất hai tỉnh Tuyên Quang, Thái Nguyên để phụng thờ tông tự; mà không nữa, thì xin cho về nước vào đất Gia Định với chúa Nguyễn để mưu đồ việc khôi phục. Văn biểu làm xong, đến nói lót trước với Kim Giản, Kim Giản không nghe, vua tôi nhà Lê phục xuống đất mà kêu khóc. Kim Giản bất đắc dĩ mời vào an ủi, rồi nói rằng: hãy xin về quán nghỉ ngơi, đợi để thương lượng thế nào, sau sẽ cho biết. Kim Giản bèn mưu với Hòa Thân phân trí vua tôi An Nam đi ở mỗi người một nơi, để cho khỏi kêu ca khó chịu.
     Đến tháng tư năm Tân Hợi (1791) Hoàng Ích Hiểu phải đày sang I- Lê (thuộc Hồi Bộ ở Tây vực, phía Tây nước Tàu); Lê Hân đày đi Phụng Thiên (Mãn Châu); Phạm Như Tùng đày lên Hắc Long Giang (Mãn Châu); Nguyễn Viết Triệu, Lê Quý Thích, Nguyễn Đình Miên, Đàm Thận Xưởng, Lê Văn Trương đày ra bến Trương Gia ở Nhiệt Hà (thuộc tỉnh Trực Lệ). Chỉ để Phạm Đình Thiện, Đinh Nhạ Hành ở lại hầu hạ vua Lê.
     Vua Chiêu Thống nghe chuyện ấy lo lắng chua xót, ruột nóng như lửa đốt, sáng hôm sau cưỡi ngựa đế nhà Kim Giản để kêu oan cho mấy người phải đi đày, gặp Kim Giản vào chầu vua nhà Thanh ở vườn Viên Minh, vua Chiêu Thống đi vào cửa, bị lính giữ cửa ngăn cấm không cho đi. Bấy giờ có Nguyễn Văn Quyên đi theo hầu vua, thấy lũ lính vô lễ, nổi giận chửi mắng rằng: "Lũ chó Ngô kia sao chúng bay được làm nhục đến vua tao!" Rồi lấy gạch ném vào chúng nó. Chúng nó xúm nhau lại đánh Văn Quyên về thành bệnh mà chết.
     Từ đó vua Chiêu Thống trong buồn rầu, không dám nói đến việc xin binh nữa. Qua tháng 5 năm Nhâm Tí (1792) Hoàng tử lên đậu mất, Vua lâm bệnh ngày một nặng, đến tháng 10 năm Quý Sửu (1793) thì mất, thọ 28 tuổi. Vua nhà Thanh sai theo lễ tước công mà táng ở ngoài cửa Đông Trực. Tháng 11 năm Kỷ Mùi (1799) đời vua Gia Khánh bà Hoàng Thái Hậu mất.
     Năm Nhâm Tuất (1802) khi bên Việt Nam vua Thế Tổ nhà Nguyễn đã thống nhất Nam Bắc và có sứ ta sang cầu phong, các quan nhà Lê mới nhân dịp dâng biểu xin đem ma Thái Hậu và Cố Quân về nước. Vua Gia Khánh cho tất cả những người Việt Nam theo vua Lê sang Tàu về nước.
     Sử chép rằng khi cải táng mả Cố Quân, thấy da thịt đã tiêu cả, chỉ còn có quả tim vẫn đỏ như thường, ai trông thấy cũng động lòng thương xót. Dẫu chuyện đó thực hư thế nào, nhưng nghĩ đến tình cảnh vua Chiêu Thống lúc bấy giờ ai cũng ái ngại thay cho ông vua một nước, phải đày đọa đến nỗi như thế, bi kịch thảm xót muôn đời. Tuy rằng tại vua tôi nhà Lê vụng tính cho nên bị người ta đánh lừa, nhưng cũng nên trách vua quan nhà Thanh xử tệ, bạc đãi một ông vua vong quốc, đem thân đến nương nhờ nước mình. Ấy cũng là một thời dã man về đời áp chế, khiến cho cái oan khổ của người ta muôn đời về sau không tiêu thoát đi được.
     Khi đem ma bà Thái Hậu và vua Chiêu Thống về đến Việt Nam thì bà Hoàng Phi trước phải ẩn nấp ở đất Kinh Bắc, nay lên đến Ải quan đón rước, rồi về đến Thăng Long cũng nhịn ăn mà tự tử. Ngày 24 tháng 11, rước ma Cố quân, Thái Hậu, Hoàng Phi và Hoàng tử về táng ở lăng Bàn Thạch ở Thanh Hóa.
     6. Đức độ Vua Quang Trung.
     Vua Quang Trung nhà Nguyễn Tây Sơn là ông Vua anh dũng, lấy võ lược mà dựng nghiệp, nhưng ngài có độ lượng, rất am hiểu việc trị nước, biết trọng những người hiền tài văn học. Khi ngài ra lấy Bắc Hà, những người như Ngô Thì Nhiệm, Phan Huy Ích đều được trọng dụng và nhất là đối với một người xử sĩ như Nguyễn Thiếp thì thật là khác thường.
     Ông Nguyễn Thiếp, tự là Khải Chuyên, hiệu là Nguyệt Úc, biệt hiệu là Hạnh Am. Ông làm nhà ở Lục Niên Thành, thuộc huyện La Sơn, tỉnh Hà Tĩnh bây giờ, cho nên người ta gọi là Lục Niên tiên sinh hay là La Sơn phu tử. Vua Quang Trung từ khi đem quân ra đánh Bắc Hà, biết tiếng Nguyễn Thiệp, đã mấy lần cho người đem lễ vật mời ông ra giúp, ông không nhận lễ và cũng từ chối không ra. Đến khi ngài đã đăng cực, lại mấy lần cho người đến mời ông, ông có đến bái yết và khuyên vua nên lấy nhân nghĩa mà trị dân trị nước, rồi lại xin về. Vua Quang Trung tuy không dùng được ông, nhưng bao giờ cũng tôn kính ông như bậc thầy, và việc chính trị trong nước thường theo ý nghĩa của ông đã trình bày.
     7. Chính trị của vua Quang Trung.
     Vua Quang Trung tuy đã thụ phong nhà Thanh, nhưng vẫn tự xử theo cách Hoàng Đế, lập bà Ngọc Hân con vua Hiển Tông nhà Lê làm Bắc Cung Hoàng Hậu, lập con là Quang Toản làm Thái Tử. Lại lấy thành Nghệ An là đất giữa nước và lại là đất tổ khi xưa ở đó, mới sai thợ thuyền vận tải đá, gỗ, gạch, ngói, sửa sang đền đài cung điện, và sai quân các đạo đào lấy đá ong để xây nội thành, gọi là Phượng Hoàng Trung Đô. Cải thành Thăng Long là Bắc Thành, chia đất Sơn Nam ra làm hai trấn, gọi là Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ. Mỗi trấn đặt quan trấn thủ và quan hiệp trấn. Mỗi huyện, văn thì đặt chức phân tri để xét việc kiện cáo, võ thì đặt chức phân suất để coi việc binh lương.
     8. Việc định đánh Tàu.
     Trước vua Quang Trung cầu hòa với nước Tàu và chịu phong là cốt để đợi ngày có đủ sức mà đánh báo thù, cho nên từ khi trong nước đã dẹp yên rồi, ngày đêm trù tính việc đánh Tàu. Đình thần ai cũng bàn nên xét số dân đinh cho đích thực để kén lấy lính. Vua bèn xuống lệnh cho các trấn bắt dân xã làm lại sổ đinh, ai ai cũng phải biên vào sổ, rồi cấp cho mỗi người một cái thẻ bài, khắc bốn chữ "Thiên Hạ Đại Tính", chung quanh ghi tên họ quê quán, và phải điểm chỉ làm tin. Người nào cũng phải đeo thẻ ấy gọi là tín bài. Ai không có thẻ là dân lậu, bắt sung vào quân phòng, và bắt tội tổng trưởng, xã trưởng. Nhân có việc ấy, những kẻ lại dịch hiệp với xã trưởng đi lại làm bậy: thường vào làng vây bắt hỏi thẻ, làm cho dân gian nhiễu động, nhiều người phải trốn vào rừng mà ở. Sổ đinh làm xong rồi cứ ba tên đinh kén lấy một người lính. Quân thì chia ra làm đạo, cơ, đội. Đạo thì thống các cơ, cơ thì thống các đội. Cơ đội nào theo về cơ đội ấy, bắt phải diễn tập luôn luôn.
     Bấy giờ ở bên Tàu có giặc Tàu Ô quấy nhiễu ở miền bể bị quân nhà Thanh đánh đuổi, chạy sang xin phụ thuộc nước ta, vua Quang Trung cho người tướng Tàu Ô làm chức tổng binh, sai sang quấy nhiễu ở mặt bể nước Tàu. Lại có người thuộc về đảng Thiên Địa Hội làm giặc ở Tứ Xuyên, vua cũng thu dùng cho làm tướng.
     Công việc xếp đặt đâu vào đấy rồi, đến năm Nhâm Tí (1792) vua Quang Trung sai sứ sang Tàu, xin cầu hôn và xin trả lại cho Việt Nam đất Lưỡng Quảng. Việc ấy tuy không phải là bản ý nhưng muốn mượn chuyện để thử ý vua nhà Thanh. Không ngờ vua Quang Trung phải bệnh mất, các quan dìm việc cầu hôn và việc xin trả đất đi, không cho Thanh triều biết.
     9. Vua Quang Trung mất.
     Vua Quang Trung mất năm Nhâm Tí (1792), làm Vua được 4 năm, thọ 40 tuổi, miếu hiệu là Thái Tổ Võ Hoàng Đế.
     Triều thần bấy giờ là Bùi Đắc Tuyên, Trần Quang Diệu, Vũ Văn Dũng lập thái tử là Nguyễn Quang Toản lên nối ngôi làm vua, rồi sai sứ sang Tàu dâng biểu cáo tang và cầu phong. Trong biểu nói dối rằng khi vua Quang Trung mất có dặn lại rằng phải đem chôn ở Tây Hồ gần Bắc Thành, để tỏ cái bụng quyến luyến trông về Thiên triều. Vua nhà Thanh xem biểu tưởng là thật, khen là trung, đặt tên thụy cho là Trung Thuần, lại ngự chế một bài thơ sang viếng, sai quan án sát Quảng Tây là Thành Lâm sang tế, và phong cho Quang Toản làm An Nam Quốc Vương. Trong bài văn tế có câu rằng:
Chầu ngô Nam cực,
Lòng trung nghĩa hết đạo thờ vua
Chôn đất Tây hồ
Nghĩa thần tử vẫn còn mến chúa
     10. Vua Cảnh Thịnh (1782-1802).
     Khi vua Quang Trung mất thì Thái Tử là Nguyễn Quang Toản mới lên 10 tuổi, Triều đình tôn lên làm vua, đặt niên hiệu là Cảnh Thịnh, sau thành Phú Xuân thất thủ, vua tôi nhà Tây Sơn chạy ra Bắc Hà lại đổi niên hiệu là Bảo Hưng. Vua Cảnh Thịnh tuy đã lên ngôi nhưng mọi việc đều do Thái sư Bùi Đắc Tuyên quyết đoán. Bùi Đắc Tuyên là anh ruột bà Thái Hậu, uy quyền cao nên lại càng hống hách. Các quan văn võ có nhiều người không phục, bởi vậy nên về sau trong Triều phân ra bè đảng; các đại thần giết hại lẫn nhau. Vả lại, bấy giờ có vua Thế Tổ Cao Hoàng nhà Nguyễn là một bậc có tài trí, quyết chí phục thù, nên cơ nghiệp nhà Tây Sơn không được bao lâu mà đổ nát.
VUA GIA LONG

     1. Nguyễn Vương khởi binh đánh Tây Sơn.
     Khi Thái Thượng Vương và Tân Chính Vương bị bắt, người cháu Thái Thượng Vương là Nguyễn Phúc Ánh chạy thoát được. Đến khi Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ về Quy Nhơn, Nguyễn Phúc Ánh lại tụ tập những tôi tớ cũ, khởi binh từ đất Long Xuyên lên đến Sa Đéc và cùng quan chưởng dinh là Đỗ Thanh Nhân, quan cai đội Lê Văn Câu và các tướng là Nguyễn Văn Hoằng, Tống Phước Khuông, Tống Phước Lương về đánh đuổi tổng đốc Chu, lấy lại thành Sài Côn. Bấy giờ Nguyễn Phúc Ánh mới có 17 tuổi, các tướng đều tôn làm Đại Nguyên Súy, Nhiếp Quốc Chính.
     Vua Tây Sơn sai tổng đốc Chu, tư khấu Uy, và quan hộ giá Phạm Ngạn đem quân thủy vào đánh Trấn Biên và Phan trấn cùng các miền ở mặt bể. Đỗ Thanh Nhân đem quân Đông Sơn đánh chém được tư khấu Uy, đuổi được quân Tây Sơn, ông Nguyễn Phúc Ánh bèn sai Lê Văn Quân đem binh ra đánh lấy thành Bình Thuận và thành Diên Khánh.
     Sau khi khôi phục được đất Gia Định, Nguyễn Phúc Ánh sai sứ sang thông với nước Tiêm La, sai Đỗ Thanh Nhân, Hồ Văn Lân đem binh đi đánh Chân Lạp, lập con Nặc Tôn là Nặc In lên làm vua để Hồ Văn Lân ở lại bảo hộ. Ở đất Gia Định thì ngài sửa sang mọi việc: đặt quan cai trị các dinh, định lệ thu thuế để nuôi binh lính, làm chiến thuyền, tập binh mã phòng bị việc chiến tranh.
     Năm Canh Tí (1780) Nguyễn Phúc Ánh xưng vương hiệu rồi phong cho Đỗ Thanh Nhân làm chức Ngoại Hữu, Phụ Chính, Thượng Tướng Công và thăng thưởng cho các tướng sĩ. Sau vì Đỗ Thanh Nhân cậy công lộng quyền nên Nguyễn Vương mới giết đi. Cũng vì việc ấy cho nên Đông Sơn trước đã hết lòng giúp Nguyễn Vương, sau đều phản lại, thành ra lôi thôi phải đánh dẹp mãi.
     Tháng 10 năm Tân Sửu (1781) vua nước Tiêm La là Trịnh Quốc Anh sai tướng là Chất Tri  (Chakkri) và Sô Si, hai anh em sang đánh Chân Lạp. Nguyễn Vương sai quan Chưởng cơ là Nguyễn Hữu Thoại và Hồ Văn Lân đem 3.000 quân sang cứu. Trong khi quân Nam và quân Tiêm La còn đang chống giữ nhau ở Chân Lạp, thì ở Vọng Các vua nước Tiêm La bắt giam cả vợ con của hai anh em Chất Tri, bởi vậy hai tướng ấy mới giao kết với Nguyễn Hữu Thoại thề phải cứu nhau trong lúc hoạn nạn. Đoạn rồi Chất Tri đem quân về Tiêm La. Ngay lúc ấy ở bên nước Tiêm có giặc nổi lên, vua nước ấy bị ngươi Phan Nha Văn Sản đuổi đi cướp mất ngôi. Chất Trí về đến Vọng Các, sai người đi tìm quốc vương là Trịnh Quốc Anh đem giết đi, và bắt giết cả Phan Nha Văn Sản, rồi tự lập làm vua, xưng là Phật Vương, phong cho em là Sô Si làm đệ nhị vương, cháu là Ma Lạc làm đệ tam vương. Họ Chakkri làm vua đến nay hãy còn, và các vua đều xưng là Rama.
     Tháng ba năm Nhâm Dần (1782) vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ đem hơn 100 chiếc thuyền vào cửa Cần Giờ, đánh nhau với quân Nguyễn Vương ở Thất Kỳ Giang (tức Ngả Bảy). Trận ấy quân Nguyễn Vương thua to, có người nước Pháp tên là Mạn Hòe (Manuel) làm chủ một chiếc tàu phải đốt tàu mà chết. Nguyễn Vương phải bỏ thành Sài Gòn chạy về đất Tam Phụ (Ba Giồng), rồi ra lánh ở đảo Phú Quốc. Vua Tây Sơn bình xong đất Gia Định, rút quân về Quy Nhơn, để hàng tướng là Đỗ Nhàn Trập ở lại giữ thành Sài Côn (tức Sài Gòn).
     Khi quân Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ về Quy Nhơn rồi, các tướng nhà Nguyễn lại nổi lên đánh quân Tây Sơn. Bấy giờ có Châu Văn Tiếp là người ở Quy Nhơn, nhân lúc loạn, tụ tập nghĩa quân giữ núi Trà Lang (thuộc Phú Yên). Đến khi chúa Nguyễn bỏ Phú Xuân chạy vào Gia Định, Châu Văn Tiếp đem binh ra giúp. Sau chẳng may chúa Nguyễn thất thế ngộ hại, Nguyễn Vương lên nối nghiệp. Văn Tiếp theo giúp, được phong làm chức chưởng cơ, đem binh ra đánh Tây Sơn, bị thua, phải bỏ về giữ Trà Lang. Nay được tin Gia Định thất thủ, Văn Tiếp bèn đem quân từ Phú Yên về hợp với quân các đạo, đánh đuổi quân Tây Sơn, lấy lại được thành Sài Côn rồi cho người ra Phú Quốc đón Nguyễn Vương về.
     Nguyễn Vương về sửa sang mọi việc chống giữ với Tây Sơn. Năm Quý Mão (1783) vua Tây Sơn lại sai Nguyễn Lữ và Nguyễn Huệ đem binh vào đánh. Nguyễn Vương lại phải rước Vương mẫu và cung quyến ra Phú Quốc. Đến tháng 6 năm ấy, Nguyễn Huệ ra đánh Phú Quốc. Nguyễn Vương chạy về Côn Nôn; quân Tây Sơn lại đem thuyền đến vây Côn Nôn; nhưng may nhờ có cơn bão đánh đắm thuyền của Tây Sơn nên Nguyễn Vương mới ra khỏi trùng vi, chạy về đảo Cổ Cốt, rồi lại trở về Phú Quốc.
     2. Nguyễn Vương cầu viện nước Pháp.
     Lúc bấy giờ lương thực hết sạch, Nguyễn Vương cùng với những người đi theo phải hái rau và tìm củ chuối mà ăn, thế lực cùng kiệt, thật là nguy nan. Nhân vì khi trước Nguyễn Vương có quen một người nước Pháp làm giám mục đạo Gia Tô, tên là Bá Đa Lộc (Pierre Pigneau de Béhaine, évêque d Adran) khi ấy đang ở đất Chantaboun (thuộc nước Tiêm La), ngài bèn sai người đến bàn việc. Ông Bá Đa Lộc nói nên sang cầu cứu nước Pháp, nhưng phải cho Hoàng Tử đi làm con tin. Nguyễn Vương theo lời, giao Hoàng Tử Cảnh và cái quốc ấn cho ông Bá Đa Lộc, lại làm tờ quốc thư cho ông ấy được quyền sang thương nghị với chính phủ Pháp để xin viện binh. Tờ quốc thư ấy có 14 khoản, đại lược nói nhờ ông Bá Đa Lộc sang xin nước Pháp giúp cho 1.500 quân và tàu bè, súng ống, thuốc đạn. Nguyễn Vương xin nhường cho nước Pháp cửa Hội An (Faifo), đảo Côn Nôn và cho người Pháp được đặc quyền vào buôn bán ở nước Nam.
     Nguyễn Vương lại viết thư riêng dâng vua nước Pháp và sai quan phó vệ úy Phạm Văn Nhân, quan cai cơ là Nguyễn Văn Liêm theo hộ vệ Hoàng Tử Cảnh bấy giờ mới có 4 tuổi. Mọi sự đã xếp đặt xong nhưng vì trái mùa gió nên ông Bá Đa Lộc chưa khởi hành được. Nguyễn Vương tuy đã nghe lời ông Bá Đa Lộc sang cầu cứu nước Pháp, nhưng trong bụng chưa quyết hẳn, còn có ý muốn nhờ nước Tiêm La.
     Châu Văn Tiếp khi đánh thua ở Sài Gòn có chạy sang Tiêm La cầu cứu. Đến tháng 2 năm Giáp Thìn (1784) vua Tiêm La sai tướng là Chất Si Đa đem thủy quân sang Hà Tiên, tìm Nguyễn Vương để mời sang bàn việc. Nguyễn Vương lại tiếp được mật biểu của Châu Văn Tiếp nên mới đến hội với tướng nước Tiêm, rồi cùng sang Vọng Các xin binh cứu viện. Tiêm Vương tiếp đãi Nguyễn Vương rất hậu, và sai hai tướng là Chiêu Tăng, Chiêu Sương đem hai vạn quân cùng 300 chiếc thuyền sang giúp Nguyễn Vương. Quân Tiêm La sang lấy được Rạch Giá, Ba Thắc, Trà Ôn, Mân Thít, Sa Đéc. Khi đánh ở Mân Thít, Châu Văn Tiếp bị thương nặng mà mất. Từ đó quân Tiêm ỷ thế đi đến đâu quấy nhiễu nhân dân, làm nhiều điều tàn ác nên lòng người oán hận.
     3. Nguyễn Huệ phá quân Tiêm La.
     Tướng Tây Sơn giữ đất Gia Định là Trương Văn Đa, thấy quân Tiêm La sang đánh phá, thế lực rất mạnh, bèn sai người về Quy Nhơn phi báo. Vua Tây Sơn sai Nguyễn Huệ đem binh vào chống giữ. Nguyễn Huệ vào đến Gia Định nhử quân Tiêm La đến gần Rạch Gầm và Xoài Mút ở phía trên Mỹ Tho, rồi đánh phá một trận, giết quân Tiêm chỉ còn được vài nghìn người, chạy theo đường thượng đạo trốn về nước. Nguyễn Huệ phá được quân Tiêm La rồi, đem binh đuổi đánh Nguyễn Vương. Nguyễn Vương bấy giờ hết cả lương thực, cùng với mấy người chạy về Trấn Giang, ra đảo Thổ Châu, đảo Cổ Cốt, rồi sang Tiêm La. Đánh dẹp xong, Nguyễn Huệ đem quân về Quy Nhơn để đô đốc là Đặng Văn Chân ở lại trấn đất Gia Định.
     Nguyễn Vương biết thế không mong cậy được người Tiêm La, bèn giục ông Bá Đa Lộc đem Hoàng tử đi sang nước Pháp cầu viện. Ông Bá Đa Lộc đi rồi, Nguyễn Vương rước Vương mẫu và cung quyến sang trú ở Vọng Các để chờ cơ hội trở về khôi phục.

NGUYỄN VƯƠNG THỐNG NHẤT NƯỚC NAM
     1. Nguyễn Vương Ánh ở Tiêm La.
     Tháng 4 năm Ất Tị (1785), ông Nguyễn Huệ phá quân Tiêm La ở Mỹ Tho, Nguyễn Vương sang nương nhờ nước Tiêm. Khi các tướng sĩ đã biết ngài ở Tiêm La, bấy giờ có quan cũ là Lê Văn Câu (còn gọi Quân hay Duân) đem 600 người sang theo giúp. Vua nước Tiêm để cho người Việt Nam ở riêng một chỗ gọi là Long Kỳ, ở ngoài thành Vọng Các (Bangkok).
     Quân Diến Điện sang đánh Tiêm La, Nguyễn Vương cùng Lê Văn Câu, Nguyễn Văn Thành đi đánh giúp nước Tiêm. Nguyễn Vương lại có công trừ được những giặc Mã Lai thường vẫn hay đến quấy nhiễu ở mặt bể. Bởi vậy cho nên nước Tiêm lại càng trọng đãi vua tôi nhà Nguyễn.
     2. Nguyễn Vương về lấy Gia Định.
     Trong khi Nguyễn Vương còn phải nương náu ở đất Tiêm La, ông Nguyễn Huệ tiến binh ra Bắc Hà giết Trịnh Khải, tôn vua Lê, rồi về được phong là Bắc Bình Vương, đóng ở Phú Xuân. Ông Nguyễn Nhạc xưng là Trung Ương Hoàng Đế, phong cho Nguyễn Lữ làm Đông Định Vương vào giữ đất Gia Định. Nhưng chẳng được bao lâu, Nguyễn Nhạc và Nguyễn Huệ không hòa với nhau. Nguyễn Nhạc đem quân Phú Xuân vào vây thành Quy Nhơn nguy cấp lắm. Nguyễn Nhạc phải vời đô đốc Đặng Văn Chân đem quân ở Gia Định ra cứu.
     Nguyễn Vương ở Tiêm La vẫn theo dõi tình hình, biết có cơ hội lấy được đất Gia Định và biết rằng Tiêm La không giúp được cho mình lại còn có ý ghen ghét. Được tin đất Gia Định có thể lấy được, Vương bèn để thư lại từ tạ vua Tiêm La, rồi nửa đêm đem Vương mẫu và cung quyến xuống thuyền về nước. Bấy giờ là tháng 7 năm Đinh Mùi (1787). Nguyễn Vương đi qua đảo Cổ Cốt có người nhà Thanh tên là Hà Hỉ Văn thuộc về Thiên Địa Hội đem người đến xin theo giúp. Vương về đến Hà Tiên cho người đưa Vương mẫu và cung quyến ra Phú Quốc, rồi đưa quân về đóng ở Long Xuyên. Nguyễn Vương đi đến đâu, những người hào kiệt ra theo rất nhiều lại có tướng Tây Sơn là Nguyễn Văn Trương đem 300 quân, 15 chiếc thuyền ra hàng. Qua tháng 6, Vương vào cửa Cần Giờ, quân thế to lắm, Đông Định Vương Nguyễn Lữ khiếp sợ để quan thái phó Phạm Văn Tham giữ thành Sài Gòn rồi lui về đóng ở Lạng Phụ, Biên Hòa.
     Nguyễn Vương trá làm bức thư của Nguyễn Nhạc gửi cho Nguyễn Lữ, trong thư bảo phải giết Phạm Văn Tham, rồi giả tảng đưa lầm cho Phạm Văn Tham, Phạm Văn Tham được thư, lập tức về Lạng Phụ để phân giải với Nguyễn Lữ. Nguyễn Lữ thấy tự nhiên Phạm Văn Tham kéo quân đến, lại có cờ trắng đi trước, tưởng là Văn Tham đã đầu hàng nhà Nguyễn, vội vàng bỏ thành chạy về Quy Nhơn, được ít lâu thì mất. Phạm Văn Tham trở về giữ thành Gia Định đánh phá được quân nhà Nguyễn. Nguyễn Vương phải rút quân về Mỹ Tho, chỉ còn được 300 quân và vài mươi chiếc thuyền, thế lực đã núng lắm, nhưng nhờ có mộ thêm mấy nghìn quân Cao Miên và mấy toán quân Tây Sơn về hàng, nên quân thế mới hơi vững. Mặt khác lại nhờ có Võ Tính là tướng giỏi ra giúp nên Nguyễn Vương tiến lên đánh Nước Xoáy, Phạm Văn Tham lùi về đóng ở Ba Thắc. Võ Tính là người Biên Hòa, có người anh tên là Võ Nhân làm thuộc tướng Đỗ Thanh Nhân. Sau Đỗ Thanh Nhân bị giết, Võ Nhân tụ quân Đông Sơn làm phản, đánh lại chúa Nguyễn, nhưng chẳng bao lâu cũng bị bắt, phải giết. Võ Tính đem dư đảng Đông Sơn của anh về giữ Vườn Trầu (Gia Định), sau lại về đóng ở Gò Công, xưng là Tổng Nhung, thủ hạ có mấy vạn người, quân Tây Sơn đã bị đánh phá nhiều lần, thường nói rằng: "Trong bọn tam hùng đất Gia Định, Võ Tính là anh hùng bậc nhất, không nên phạm đến". Khi Nguyễn Vương ở Tiêm La về sai Nguyễn Đức Xuyên đến dụ Võ Tính về giúp. Đến khi Nguyễn Vương về đóng ở Nước Xoáy, Võ Tính đem bộ hạ đi đuổi đánh Phạm Văn Tham, rồi đến tháng tư năm Mậu Thân (1788) mới đem Võ Văn Lượng, Nguyễn Văn Hiếu, Mạc Văn Tô, Trần Văn Tín đến hành tại bái kiến Nguyễn Vương. Nguyễn Vương mừng rỡ, phong cho làm Tiền Phong Dinh Chưởng Cơ và lại gả em gái là bà Ngọc Du Công Chúa. Bọn Võ Văn Lượng đều được phong làm cai cơ. Qua tháng 7 năm ấy (1788) Nguyễn Vương đem quân về đóng ở Ba Giồng, rồi sai Tôn Thất Hội và Võ Tính đem binh vào đánh quan đốc chiến Tây Sơn là Lê Văn Minh ở đồn Ngũ Kiều, đốt phá cả đồn trại, bắt được tướng sĩ rất nhiều. Lại có tướng là Nguyễn Văn Nghĩa phá được quân Tây Sơn ở Lộc Dã (Đồng Nai). Tháng 8 Nguyễn Vương vào thành Gia Định, chiêu yên trăm họ, sửa sang phép tắc và phong thưởng cho các tướng sĩ. Bấy giờ quan thái bảo Tây Sơn là Phạm Văn Tham vẫn đóng ở Ba Thắc; vương sai giữ các cửa bể không cho quân Tây Sơn chạy thoát, rồi sai Nguyễn Văn Nhàn sang Tiêm La báo tiệp; sai Nguyễn Văn Nhân và Trương Phúc Giáo ra Phú Quốc đón Vương mẫu và cung quyến về Gia Định.
     Năm Kỷ Dậu (1789) Phạm Văn Tham ở Ba Thắc đem binh xuống thuyền định ra bể về Quy Nhơn, nhưng Nguyễn Vương đã sai Lê Văn Câu, Tôn Thất Hội, Võ Tính, Nguyễn Văn Trương hợp binh đánh ở Hỗ Châu, quân Phạm Văn Tham không phá được vây, lại phải lui về Ba Thắc. Văn Tham chờ không thấy viện binh, liệu thế giữ không nổi, bèn đem binh ra hàng, được ít lâu bị tội phải giết. Từ đó toàn đất Gia Định thuộc về chúa Nguyễn.
     3. Nguyễn Vương sửa sang mọi việc ở Gia Định.
     Nguyễn Vương thu phục đất Gia Định, lập ra luật pháp, cấm dân đánh cờ bạc, phù thủy, đồng bóng để giữ gìn phong tục. Trước hết Vương lo chỉnh đốn những việc thuế khóa, việc canh nông lấy lương tiền nuôi tướng sĩ và tu bổ việc vũ bị, đặt ra các sở công đồng để các quan văn võ hội nghị việc quốc quân và lo sự tiến binh đánh Tây Sơn.
     4. Việc khai khẩn điền thổ.
     Đất Gia Định bấy giờ chia ra làm 4 doanh: Phiên Trấn, Trấn Biên, Trấn Vĩnh và Trấn Định, nhưng vì phải loạn lạc mãi, dân sự đói khổ, ruộng đất bỏ hoang, lương thực không đủ. Nguyễn Vương bèn sai văn thần là Trịnh Hoài Đức, Lê Quang Định, Ngô Tùng Chu, Hoàng Minh Khánh cả thảy là 12 người làm điền tuấn quan để khuyên nhủ quân dân cố sức làm ruộng. Từ lính phủ binh cho đến người cùng cố đều bắt phải làm ruộng. Hễ ai không chịu thì bắt phải làm lính để thay cho phủ binh. Đến mùa lúa chín, thì cứ mỗi người cày ruộng đồng bằng phải nộp 100 cơ, ai cày ruộng núi thì phải nộp 60 cơ trở lên. Ai nộp đủ lệ ấy, như phủ binh thì được miễn cho một năm không phải đi đánh giặc, mà dân đinh thì được miễn cho một năm giao dịch. Ai không nộp đủ thì không được dự vào lệ miễn ấy. Lại mộ những dân ở các nơi đến làm ruộng, gọi là điền tốt. Quan điền tuấn lấy ruộng đất bỏ hoang cấp cho để cày cấy. Ai không có đủ trâu bò mà cày bừa, thì quan cũng cấp cho, rồi đến mùa phải trả bằng thóc. Nguyễn Vương lại phát trâu bò và điền khí cho quân dân, bắt đi khai khẩn những nơi rừng núi để làm ruộng gọi là đồn điền, rồi đến mùa lấy thóc để vào kho, gọi là đồn điền khố. Các quan văn võ đều phải mộ người lập thành đội, gọi là đồn điền đội, mỗi năm mỗi người phải nộp 6 hộc thóc. Dân thì ai mộ được 10 người trở lên, thì cho làm cai trại và được trừ sưu tịch. Cách Nguyễn Vương khai khẩn đất Gia Định thật là khôn khéo, khiến cho đất Nam Việt nguyên là một vùng đất hoang vu mà sau thành một nơi đông người, trù phú của nước Nam. Đó cũng là công lớn của ông Nguyễn Phúc Ánh.
     5. Việc buôn bán.
     Nguyễn Vương lập lệ: phàm những thuyền của khách có chở những đồ gang, sắt, kẽm và lưu hoàng, thì quan mua để làm binh khí, và cho cứ theo số hàng nhiều ít, được chở thóc gạo về nước. Bởi vậy những khách buôn bán cũng vui lòng đem đồ hàng đến bán. Vương lại sai quan ở doanh Trấn Biên cứ theo giá chợ mà mua lấy đường cát để đổi cho những người Tây Dương lấy đồ binh khí.
     Mùa đông năm Giáp Thìn (1784), ông Bá Đa Lộc đưa Hoàng tử Cảnh cùng Phạm Văn Nhân và Nguyễn Văn Khiêm xuống tàu sang Pháp; đi qua Ấn Độ Dương và thành Phong-ti-thê-ri (Pondichéry) Ấn Độ, ở lại gần 20 tháng, đến mùa xuân năm Đinh Mùi (1787), tàu mới vào cửa Lorient phía tây nước Pháp.
     Ông Bá Đa Lộc đưa Hoàng Tử Cảnh vào yết kiến Pháp Hoàng Louis XVI. Pháp Hoàng lấy vương lễ tiếp đãi Hoàng Tử và giao cho Thượng thư Bộ ngoại giao bá tước De Montmorin thương nghị với ông Bá Đa Lộc việc sang giúp Nguyễn Vương. Ngày 28 tháng 11 năm 1787, ông Bá Đa Lộc và De Montmorin bá tước ký giao ước với những điểm chính: Nước Pháp giúp Nguyễn Vương 4 chiếc tàu chiến và một đạo binh 1.200 lục quân, 200 pháo binh, 250 hắc binh ở Phi Châu (Cafres) và đủ các thứ súng ống thuốc đạn. Đổi lại, Nguyễn Vương phải nhường đứt cho nước Pháp cửa Hội An (Faifo) và đảo Côn Lôn (Poulo-Condore); Phải để người Pháp tự do buôn bán, không cho người nước khác buôn bán ở nước Nam. Khi nước Pháp cần lính, lương thực, tàu bè thì Nguyễn Vương phải cấp đủ. Khi Nguyễn Vương khôi phục được nước, mỗi năm đóng một chiếc tàu như tàu của nước Pháp trả cho Pháp Hoàng.
     Tờ giao ước ký xong, Pháp Hoàng xuống chiếu giao cho quan tổng trấn thành Pondichéry ở Ấn Độ, tên là De Conway bá tước lo việc sang giúp Nguyễn Vương. Ngày mồng 8 tháng chạp tây, năm 1787, ông Bá Đa Lộc vào bái tạ Pháp Hoàng Louis XVI, rồi đem Hoàng Tử Cảnh xuống tàu về nước. Khi sang đến thành Pondichéry, vì De Conway bá tước có chuyện bất hòa với ông Bá Đa Lộc, nên bá tước tìm cách cản trở việc giúp Nguyễn Vương, làm sớ tâu Pháp Hoàng xin bãi việc ấy, lấy cớ đem binh sang cứu viện Nguyễn Vương là việc rất khó mà không có lợi gì. Pháp Đình xem xét đồng ý theo sớ của De Conway bá tước nên việc sang cứu viện Nguyễn Vương không thành. Nếu lúc ấy Pháp giúp Nguyễn vương thì việc bảo hộ nước Pháp xẩy ra sớm hơn chứ không cần gây ra chiến tranh sau này.
     Bá Đa Lộc thấy De Conway bá tước không chịu xuất binh thuyền, bèn tự đi mộ người, mua tàu và súng ống khí giới đem sang giúp Nguyễn Vương. Đến tháng 6 năm Kỷ Dậu (1789), ông Bá Đa Lộc và hoàng tử Cảnh đi chiếc tàu chiến Méduse về đến Gia Định. Các tàu buôn chở súng ống thuốc đạn cũng lục tục sang sau. Bấy giờ những người Pháp tên là Chaigneau (Nguyễn Văn Thắng), tức là chúa tàu Long, Vannnier, (Nguyễn Văn Chấn), tức là chúa tàu Phụng, De Forcant (Lê Văn Lăng), Victor Ollivier (ông Tín), Dayot...Tất cả gần 20 người theo ông Bá Đa Lộc sang giúp Nguyễn Vương; Vương phong quan tước cho mọi người để luyện tập quân sĩ, làm tàu, đúc súng, và chỉnh đốn mọi việc vũ bị. Từ đó, thế lực của Nguyễn Vương mỗi ngày một mạnh, tướng tá mỗi ngày một đông, lương thực nhiều, quân sĩ giỏi, việc đánh phá Tây Sơn đã chắc lắm rồi. Tháng tư năm Tân Hợi (1791), bà thứ phi sinh ra Hoàng tử thứ tư tên là Đảm, tức là vua Thánh Tổ ở làng Tân Lộc, gần Sài Gòn bây giờ. Đến tháng ba năm Quý Sửu (1793), Vương lập Hoàng tử Cảnh làm Đông Cung, phong chức nguyên súy, lĩnh tả quân doanh.
     7. Nguyễn Vương đánh Quy Nhơn lần thứ nhất.
     Nguyễn Vương đã khôi phục được đất Gia Định, nghỉ ngơi hơn một năm để chỉnh đốn mọi việc. Đến tháng tư năm Canh Tuất (1790) sai quan Chưởng tiền quân là Lê Văn Câu đem 5.000 quân ra đánh lấy Bình Thuận, Võ Tính và Nguyễn Văn Thành đem quân đi tiên phong. Chẳng bao lâu nhà Nguyễn lấy được đất Phan Rí và hạ được thành Bình Thuận. Vì Lê Văn Câu và Võ Tính hai người không chịu nhau, Nguyễn Vương bèn lưu Lê Văn Câu ở lại giữ Phan Rí, triệu Võ Tính và Nguyễn Văn Thành về Gia Định. Lê Văn Câu đem quân đóng ở Phan Rang bị quân Tây Sơn đến vây đánh, phải cho người đi gọi Võ Tính và Nguyễn Văn Thành trở lại cứu, nhưng Võ Tính không chịu trở lại, chỉ có Nguyễn Văn Thành đưa binh đến đánh giải vây rồi cùng Lê Văn Câu về giữ Phan Rí. Lê Văn Câu lấy điều bại binh ấy làm thẹn, cáo bệnh không ra coi việc binh nữa. Đến khi về Gia Định nghị tội phải cách hết chức tước, Lê Văn Câu uống thuốc độc tự tử. Quân nhà Nguyễn ra đánh Tây Sơn lần ấy không lợi; Bấy giờ là mùa tháng 7, gió bắc thổi mạnh nên Nguyễn Vương truyền rút quân về Gia Định đợi mùa gió thuận mới đem quân đi đánh, cho nên người đời bấy giờ gọi là giặc mùa. Năm Nhâm Tí (1792) tháng 3, nhân khi mùa gió nam thổi mạnh, Nguyễn Vương sai tướng Nguyễn Văn Trương, Nguyễn Văn Thành, Dayot và Vannier (Nguyễn Văn Chấn) đem chiến thuyền từ cửa Cần Giờ ra đốt phá thủy trại của Tây Sơn ở cửa Thị Nại (Quy Nhơn) rồi về.
     Tháng 3 năm Quý Sửu (1793) Nguyễn Vương để Đông Cung ở lại giữ đất Gia Định, sai Tôn Thất Hội cùng Nguyễn Huỳnh Đức và Nguyễn Văn Thành đem bộ binh ra đánh Phan Rí. Nguyễn Vương cùng Nguyễn Văn Trương và Võ Tính đem thủy sư đi đánh mặt bể. Đến tháng năm thì chiến thuyền của Nguyễn Vương vào cửa bể Nha Trang rồi lên đánh lấy phủ Diên Khánh và phủ Bình Khang, sau lại ra đánh lấy phủ Phú Yên. Mặt thủy, Nguyễn Vương được toàn thắng, còn mặt bộ, Tôn Thất Hội chỉ lấy được phủ Bình Thuận mà thôi. Vương bèn sai người đưa thư giục Tôn Thất Hội phải kíp tiến binh lên hội với thủy sư, để hai mặt cùng đánh Quy Nhơn. Khi quân của Nguyễn Vương vào cửa Thị Nại, vua Tây Sơn là Nguyễn Nhạc sai thái tử là Nguyễn Bảo, đem binh ra chống giữ. Nguyễn Vương bèn mật sai Võ Tính đem binh lẻn đi hội với toán quân Tôn Thất Hội và Nguyễn Văn Thành để đánh tập hậu. Quân của Nguyễn Bảo bị hai mặt đánh lại, chống không nổi, bỏ chạy về Quy Nhơn. Từ đó quân thủy và quân bộ của Nguyễn Vương tương thông được với nhau. Vương bèn sai Tôn Thất Hội, Võ Tính, Nguyễn Huỳnh Đức, Nguyễn Văn Thành đem binh tiến đánh thành Quy Nhơn. Nguyễn Nhạc sai người ra cầu cứu ở Phú Xuân.
     Bấy giờ vua Quang Trung đã mất rồi, vua Cảnh Thịnh, tức là Nguyễn Quang Toản, sai quan thái úy là Phạm Công Hưng, quan hộ giá Nguyễn Văn Huấn, quan đại tư lệ Lê Trung và quan đại tự mã Ngô Văn Sở đem 17.000 bộ binh và 80 con voi đi đường bộ, sai quan đại thống lĩnh Đặng Văn Chân đem hơn 30 chiếc thuyền đi đường bể, cả hai đạo cùng tiến vào cứu Quy Nhơn. Nguyễn Vương thấy viện binh đã đến, liệu thế chống không nổi, rút quân về Diên Khánh (Khánh Hòa) rồi về Gia Định, để Nguyễn Văn Thành ở lại giữ Diên Khánh, Nguyễn Huỳnh Đức ở lại giữ Bình Thuận. Đến tháng 11, Nguyễn Vương sai Đông Cung Cảnh và ông Bá Đa Lộc, Phạm Văn Nhân, Tống Phúc Khê ra giữ thành Diên Khánh.
     8. Thế lực Tây Sơn.
     Bọn Phạm Công Hưng giải được vây rồi, kéo quân vào thành Quy Nhơn, chiếm giữ lấy thành trì và tịch biên cả các kho tàng. Nguyễn Nhạc thấy vậy, tức giận thổ huyết mà chết. Ông làm vua được 16 năm.
     Vua Cảnh Thịnh ở Phú Xuân thấy Nguyễn Nhạc mất rồi, phong cho Nguyễn Bảo làm Hiến Công, cho ăn lộc một huyện, gọi là tiểu triều rồi để Lê Trung và Nguyễn Văn Huấn ở lại giữ thành Quy Nhơn. Tháng 3 năm Giáp Dần (1794) Nguyễn Văn Hưng đem bộ binh vào đánh Phú Yên, và Trần Quang Diệu vào vây thành Diên Khánh. Đông Cung Cảnh cho người về Gia Định cầu viện, Nguyễn Vương bèn đem đại binh đến đánh giải vây. Trần Quang Diệu rút quân về. Nguyễn Vương thấy thế Tây Sơn còn mạnh và lại đến mùa gió bắc, nên vương đem Đông Cung về Gia Định; để Võ Tính ở lại giữ thành Diên Khánh.
     Tháng giêng năm Ất Mão (1795) Trần Quang Diệu lại đem quân vào đánh Diên Khánh, Võ Tính hết sức chống giữ, Quang Diệu đánh mãi không được. Đến tháng hai, Nguyễn Vương để Đông Cung ở lại giữ Gia Định, đem thủy sư ra cứu Diên Khánh. Trong khi hai bên còn đang chống giữ nhau ở đất Diên Khánh, thì ở Phú Xuân các quan đại thần nhà Tây Sơn giết hại lẫn nhau, gây thành mối loạn. Nguyên từ khi vua Quang Trung mất rồi, vua Cảnh Thịnh lên ngôi, nhưng quyền về cả Thái sư Bùi Đắc Tuyên, các quan có nhiều người oán giận. Năm Ất Mão (1795) Bùi Đắc Tuyên sai Ngô Văn Sở ra Bắc Hà thay cho Vũ Văn Dũng. Văn Dũng về Phú Xuân, đi đến trạm Hoàng Giang gặp quan trung thư lệnh là Trần Văn Kỷ phải tội đày ra ở đấy. Văn Kỷ nhân đang căm tức Bùi Đắc Tuyên, bèn xui Vũ Văn Dũng rằng: "Thái sư ngôi trùm cả nhân thần, cho ai sống được sống, bắt ai chết phải chết; nếu mà không sớm trừ đi, thì rồi có chuyện bất lợi cho nhà nước. Ông nên liệu sớm đi". Vũ Văn Dũng xưa nay vẫn tin trọng Văn Kỷ, nay thấy nói như vậy, bèn nghe lời ấy, về mưu với Phạm Công Hưng và Nguyễn Văn Huấn, lừa đến đêm đem quân vây nhà Bùi Đắc Tuyên bắt bỏ ngục, rồi sai Nguyễn Văn Huấn vào Quy Nhơn bắt con Đắc Tuyên là Bùi Đắc Trụ, và cho người đưa thư ra Bắc Hà truyền cho quan tiết chết là Nguyễn Quang Thùy (em Nguyễn Quang Toản) bắt giải Ngô Văn Sở về Phú Xuân. Bọn Vũ Văn Dũng bèn đặt chuyện ra vu cho những người ấy làm phản, đem dìm xuống sông giết đi. Vua Cảnh Thịnh không sao ngăn giữ được, chỉ gạt nước mắt khóc thầm mà thôi.
     Lúc bấy giờ Trần Quang Diệu đang vây thành Diên Khánh, nghe tin ấy, thất kinh, nói với các tướng rằng: "Chúa thượng không phải là người cứng cỏi, để cho đại thần giết lẫn nhau. Nếu trong mà không yên, thì ngoài đánh người ta thế nào được?" Quang Diệu bèn giải vây rút quân về. Khi về đến Quy Nhơn, Nguyễn Văn Huấn đến tạ tội trước. Trần Quang Diệu không hỏi đến, rồi dẫn quân về đến làng An Cựu đóng bên bờ sông mé nam. Vũ Văn Dũng cùng với nội hậu Tứ cũng đem quân bản bộ ra đóng ở mé bắc bờ sông, ỷ mệnh vua ra cự nhau với Trần Quang Diệu. Vua Cảnh Thịnh sợ hãi sai quan ra khuyên giải cả hai bên, Trần Quang Diệu mới đem các tướng vào chầu, rồi với bọn Vũ Văn Dũng giảng hòa. Từ đó Trần Quang Diệu làm thiếu phó, Nguyễn Văn Huấn làm thiếu bảo, Vũ Văn Dũng làm đại tư đồ, Nguyễn Văn Danh (hay là Nguyễn Văn Tứ) làm Đại tư mã, gọi là tứ trụ đại thần. Nhưng chẳng được bao lâu có người gièm pha, Trần Quang Diệu bị thu hết cả binh quyền, chỉ được giữ chức tại triều mà thôi. Thế lực Tây Sơn từ đấy về sau mỗi ngày một kém: trên vua thì còn nhỏ dại, không có đủ uy quyền để sai khiến các quan, dưới tướng tá thì vì lòng ghen ghét rồi cứ tìm cách mà giết hại lẫn nhau. Bởi vậy cho nên đến khi quân Nguyễn Vương ở Nam ra đánh, chẳng phải mất bao nhiêu công phu mà lập nên công lớn vậy.
     9. Nguyễn Vương đánh Quy Nhơn lần thứ hai.
     Khi quân của Trần Quang Diệu giải vây Diên Khánh về Phú Xuân, Nguyễn Vương cũng rút quân về Gia Định sửa soạn việc quân lương, và sai người đi do thám mọi nơi để chiêu mộ người về đánh Tây Sơn. Đến năm Đinh Tị (1797) Nguyễn Vương để Tôn Thất Hội ở lại giữ Gia Định, rồi cùng Đông Cung Cảnh đem binh thuyền ra đánh Quy Nhơn. Lại sai Nguyễn Văn Thành và Võ Tính ra đánh Phú Yên. Quân thủy của Nguyễn Vương ra đến Quy Nhơn, thấy Tây Sơn đã phòng bị, liệu đánh không được, Nguyễn Vương bèn ra đánh Quảng Nam. Được vài tháng quân nhu không đủ, lại phải đem quân về Gia Định, sai Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường ở lại giữ thành Diên Khánh.
     10. Nguyễn Vương đánh Quy Nhơn lần thứ ba.
     Nguyễn Vương về Gia Định rồi, một mặt sai Nguyễn Văn Thụy sang Tiêm La xin với quốc vương nước ấy đem quân đi đường Vạn Tượng, hoặc sang đánh Thuận Hóa, hoặc sang đánh Nghệ An, để chận đường quân ở Bắc Hà vào. Một mặt sai quan binh bộ tham tri là Ngô Nhân Tĩnh sang sứ nhà Thanh, để do thám mọi việc. Năm Mậu Ngọ (1798) Tiểu triều là Nguyễn Bảo căm tức vua Cảnh Thịnh là Nguyễn Quang Toản chiếm giữ mất đất Quy Nhơn, bèn định bỏ về hàng Nguyễn Triều. Vua Cảnh Thịnh biết mưu ấy, sai tướng vào bắt Nguyễn Bảo giết đi. Lại có người nói gièm rằng việc Tiểu Triều làm phản là tại quan trấn thủ Lê Trung. Vua Cảnh Thịnh triệu Lê Trung về Phú Xuân, sai võ sĩ bắt chém. Được ít lâu quan thiếu phó Nguyễn Văn Huấn cũng bị giết. Từ đó quân Tây Sơn ai cũng nản lòng, có nhiều người bỏ theo về Nguyễn Vương.
     Bấy giờ có người con rễ Lê Trung là Lê Chất vốn là người đánh trận giỏi có tiếng, quan làm đến chức đại đô đốc; đến khi thấy vua Tây Sơn hay nghi kỵ mà giết hại các công thần như vậy, bèn bỏ trốn sang hàng nhà Nguyễn. Nguyễn Vương trọng dụng cho làm chức Tướng Quân. Nguyễn Vương thấy thế Tây Sơn đã suy nhược, đến tháng 3 năm Kỷ Mùi (1799) bèn cử đại binh ra đánh Quy Nhơn. Đến tháng tư thủy quân của Nguyễn Vương vào cửa Thị Nại, rồi Nguyễn Vương sai quan hậu quân Võ Tính, hữu quân Nguyễn Huỳnh Đức đem quân lên bộ đóng ở Trúc Khê. Ngay lúc bấy giờ quan Khâm sai tiền quân chưởng cơ Nguyễn Văn Thành đem bộ binh ra đánh lấy Phú Yên, rồi tiến quân lên tiếp ứng cho toán quân Võ Tính. Đến tháng 5, thì quân của Nguyễn Vương đến vây thành Quy Nhơn. Ở Phú Xuân sai Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đem binh vào cứu. Nhưng mà vào đến Quảng Nghĩa gặp quân của Nguyễn Văn Thành giữ ở Thạch Tân, cho nên không cứu được Quy Nhơn. Sử chép rằng khi đạo quân của Vũ Văn Dũng vào đến Chung Xá, đóng lại ở đấy, đến đêm có con nai ở trong rừng chạy ra, có người trông thấy kêu to lên rằng: Con nai! Quân Tây Sơn nghe lầm là quân Đồng Nai! Mọi người luống cuống bỏ chạy. Các quân đội Tây Sơn tưởng là quân nhà Nguyễn đã vây đánh, đều vỡ tan cả. Quân nhà Nguyễn thừa thế đánh đuổi, thành ra quân Tây Sơn thua to. Quan trấn thủ Quy Nhơn là Lê Văn Thanh không thấy viện binh đến, mà lương thực ở trong thành thì hết cả, bèn cùng các tướng mở cửa ra hàng. Nguyễn Vương đem quân vào thành rồi đổi tên Quy Nhơn gọi là Bình Định. Vua Tây Sơn được tin Quy Nhơn thất thủ, liền cử đại binh vào đóng ở Trà Khúc (thuộc Quảng Nghĩa) để đốc các tướng tiến binh đánh quân nhà Nguyễn. Nhưng vì phải độ trái mùa gió, thủy chiến không tiện, cho nên các quan đều can xin rút quân về. Vua Cảnh Thịnh bèn sai Nguyễn Văn Giáp ở lại giữ Trà Khúc, sai Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng giữ Quảng Nam. Nguyễn Vương cũng đem quân về Gia Định, để Võ Tính và Ngô Tòng Chu ở lại giữ thành Bình Định. Năm ấy (1899) ông Bá Đa Lộc đi tòng chinh, mất ở cửa Thị Nại. Nguyễn Vương đem về hậu táng ở Gia Định, tặng phong làm Thái Tử Thái Phó Bi Nhu Quận Công.

     11. Quân Tây Sơn vây thành Bình Định.
     Khi quân nhà Nguyễn ra vây đánh thành Quy Nhơn, vua Tây Sơn sai Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đem binh vào cứu, nhưng vì quân của Văn Dũng không đánh mà tan, đến nỗi bại binh. Việc ấy là tội Văn Dũng, nhưng nhờ có Quang Diệu giấu đi, cho nên không ai biết. Văn Dũng cảm ơn ấy, cho nên mới kết nghĩa sinh tử với Quang Diệu. Bấy giờ ở Phú Xuân có nhiều người ghét Quang Diệu, nhân dịp ấy mà đổ tội cho Quang Diệu, bèn tâu vua xin sai người đưa mật thư ra cho Vũ Văn Dũng để giết Quang Diệu. Vũ Văn Dũng tiếp được thư ấy đưa cho Trần Quang Diệu xem. Trần Quang Diệu sợ hãi, lập tức đem quân về Phú Xuân, đóng ở mé nam sông Hương Giang, nói rằng về bắt những người loạn thần. Vua Tây Sơn sai người ra giảng hòa. Không ai dám đi, sau phải bắt mấy người nộp cho Quang Diệu. Quang Diệu mới vào chầu. Vua Cảnh Thịnh cũng tìm lời giảng dụ, khuyên phải hết sức giúp đỡ nhà nước. Quang Diệu khóc lạy rồi xin cùng Văn Dũng đem thủy bộ quân vào lấy lại thành Quy Nhơn. Đến tháng giêng năm canh thân (1800), quân của Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng tiến đến gần thành Quy Nhơn. Võ Tính giữ vững, không ra đánh. Quang Diệu sai đắp lũy chung quanh thành và chia quân ra vây bốn mặt. Văn Dũng thì đem hai chiếc tàu lớn và hơn 100 chiến thuyền ra đóng giữ cửa Thị Nại, xây đồn và đặt súng đại bác ở hai bên cửa bể, để phòng ngự thủy quân nhà Nguyễn.
     Nguyễn Vương được tin quân Tây Sơn ra vây thành Bình Định, liền cử đại binh ra cứu viện, sai Nguyễn Văn Thành đem Lê Chất, Nguyễn Đình Đắc, Trương Tiến Bảo, chia ra làm ba đạo ra đánh lấy đồn Hội An ở Phú Yên, rồi kéo ra đánh ở Thị Dã (thuộc Bình Định). Nguyễn Vương đem thủy binh ra đến Quy Nhơn đóng thuyền ở ngoài cửa Thị Nại. Bấy giờ quân bộ của Nguyễn Văn Thành và quân thủy của Nguyễn Vương không thông được với nhau, cho nên sự cứu viện không có công hiệu gì cả. Đến tháng giêng năm Tân Dậu (1801), Nguyễn Vương sai Nguyễn Văn Trương, Tống Phúc Lương đem quân tiền đạo đến đánh đồn thủy của Tây Sơn, và sai Lê Văn Duyệt, Vũ Di Nguy đem thủy quân vào đánh cửa Thị Nại. Vũ Di Nguy trúng đạn chết, còn Lê Văn Duyệt ra sức chiến đấu, đốt cả tàu thuyền của Tây Sơn. Tướng Tây Sơn là Vũ Văn Dũng phải bỏ cửa Thị Nại đem binh về hợp với Trần Quang Diệu để phòng giữ mọi nơi. Nguyễn Vương lấy được cửa Thị Nại rồi, cho người đưa tin về Gia Định báo cho tướng sĩ các nơi đều biết. Năm ấy Đông Cung Cảnh lên đậu, mất ở Gia Định, thọ được 22 tuổi. Được một tháng hoàng tử thứ hai tên là Hi cũng mất ở Diên Khánh, đem về táng ở Gia Định.
     12. Nguyễn Vương thu phục Phú Xuân.
     Nguyễn Vương đánh thắng trận thủy ở Thị Nại rồi, bèn sai Nguyễn Văn Trương đem thủy quân ra đánh Quảng Nam, Quảng Nghĩa, và lại thấy quân Tây Sơn vây thành Quy Nhơn một cách cẩn mật lắm, đánh phá không được. Vương cho người lẻn vào thành bảo Võ Tính và Ngô Tòng Chu bỏ thành mà ra. Nhưng Võ Tính phúc thư lại rằng: quân tinh binh của Tây Sơn ở cả Quy Nhơn, vậy xin đừng lo việc giải vây vội, hãy nên kíp ra đánh lấy Phú Xuân thì hơn. Nguyễn Vương bèn để Nguyễn Văn Thành ở lại chống giữ với Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng, rồi đem đại quân ra đánh Phú Xuân. Bấy giờ nhà Tây Sơn cũng bối rối lắm: ở Nghệ An thì có tướng nhà Nguyễn là Nguyễn Văn Thụy và Lưu Phúc Tường đem quân Vạn Tượng sang đánh phá; ở Thanh Hóa thì có phiên thần là Hà Công Thái khởi binh giúp nhà Nguyễn; ở Hưng Hóa thì có thổ ti là Phan Bá Phụng nổi lên quấy nhiễu. Còn các trấn ở Bắc Hà thì rối vì những việc tôn giáo; các đạo trưởng và đạo đồ đạo Thiên Chúa cũng nổi lên, có ý giúp nhà Nguyễn; dân tình thì bị quan quân nhũng lạm hà hiếp, ai ai cũng có lòng oán giận. Ở Phú Xuân, vua thì hèn, các quan đại thần thì cứ ghen ghét nhau rồi tìm kế giết hại lẫn nhau, việc chính trị rối loạn. Bởi vậy nhân dân đều mong mỏi chúa Nguyễn nên có câu hát rằng: "Lạy trời cho chóng gió nồm, để cho chúa Nguyễn giong buồm thẳng ra". Nguyễn Vương thấy lòng người đã không theo Tây Sơn nữa, bèn đem binh ra đánh Phú Xuân, đến tháng năm (1801), thủy sư vào cửa Tư Dung. Tướng Tây Sơn là phò mã Nguyễn Văn Trị đem quân ra lập đồn giữ ở núi Quy Sơn. Tiền quân nhà Nguyễn đánh không được. Nguyễn Vương sai Lê Văn Duyệt và Lê Chất đem thủy binh ra đánh tập hậu. Nguyễn Văn Trị bỏ đồn mà chạy. Quân Nguyễn Vương vào cửa Nguyễn Hải (cửa Thuận An) rồi kéo lên đánh thành Phú Xuân. Vua Tây Sơn phải ngự giá đem quân ra chống giữ, hai bên đánh nhau đến giữa trưa, thì quân Tây Sơn vỡ tan. Quân Nguyễn Vương tiến lên đuổi đánh, thu phục được đô thành. Bấy giờ là ngày mồng 3 tháng 5 năm Tân Dậu (1801).
     Nguyễn Vương vào thành Phú Xuân treo biển yên dân, rồi sai Lê Chất đem bộ binh đuổi đánh quân Tây Sơn, sai Nguyễn Văn Trương đem thủy binh ra chặn ở Linh Giang, để đánh quân Tây Sơn chạy ra Bắc. Lại sai Phạm Văn Nhân ra giữ cửa Nguyễn Hải, sai Lưu Phúc Tường đem quân đi đường Cam Lộ sang Vạn Tượng truyền bảo các Mường giữ đường yếu lộ không cho quân Tây Sơn chạy tràn sang.
     13. Võ Tính tử tiết.
     Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng đang vây đánh thành Quy Nhơn, được tin Phú Xuân thất thủ, liền sai tướng đem quân ra cứu, nhưng ra đến Quảng Nam, gặp quân của Lê Văn Duyệt kéo vào đánh chặn đường, quân Tây Sơn phải lùi trở lại. Từ đó Trần Quang Diệu ngày đêm hết sức đốc quân đánh thành. Quân Nguyễn Vương ở trong thành hết cả lương thực, không thể chống giữ được nữa, quan trấn thủ là Võ Tính bèn viết thư sai người đưa ra cho Trần Quang Diệu nói rằng: "Phận sự ta làm chủ tướng, thì đành liều chết ở dưới cờ. Còn các tướng sĩ không có tội gì, không nên giết hại". Đoạn rồi sai người lấy rơm cỏ chất ở dưới lầu Bát Giác, đổ thuốc súng vào tự đốt mà chết. Quan hiệp trấn là Ngô Tùng Chu cũng uống thuốc độc tự tử. Trần Quang Diệu vào thành Quy Nhơn tha cho cả bọn tướng sĩ và sai làm lễ liệm táng Võ Tính và Ngô Tòng Chu, rồi sai đại đô đốc Trương Phúc Thượng và tư khấu Định, đem binh đi đường thượng đạo ra đánh Phú Xuân. Đi được nửa đường thì quân hết lương. Trương Phúc Thượng về hàng nhà Nguyễn, còn tư khấu Định thì đánh thua chạy vào chết ở trong Mường. Trần Quang Diệu lại sai Lê Văn Điềm vào đánh Phú Yên, cũng không được.
     Bấy giờ Trần Quang Diệu tuy đã lấy được thành Quy Nhơn, nhưng một mặt thì có quân của Lê Văn Duyệt và Lê Chất ở Quảng Nam, Quảng Nghĩa đánh vào, một mặt thì quân của Nguyễn Văn Thành ở cửa Thị Nại đánh lên, còn ở phía nam, lại có quân của Tống Viết Phúc và Nguyễn Văn Tính ở Phú Yên đánh ra. Ba mặt thụ địch, quân Tây Sơn phải hết sức chống giữ, để chờ quân ở Bắc Hà vào cứu viện.
     14. Trận Trấn Ninh.
     Từ khi thất thủ Phú Xuân, vua Cảnh Thịnh ngày đêm kíp ra Bắc Hà, đổi niên hiệu là Bảo Hưng và truyền hịch đi các trấn để lấy viện binh rồi sai em là Nguyễn Quang Thùy đem binh mã vào giữ Nghệ An. Đến tháng 11, vua Tây Sơn đem quân 4 trấn ở xứ Bắc và quân Thanh Hóa, Nghệ An, cả thảy được non 3 vạn người, sang sông Linh Giang. Lại sai tướng đem hơn 100 chiến thuyền vào giữ cửa Nhật Lệ. Bấy giờ có vợ Trần Quang Diệu là Bùi Thị Xuân cũng đem 5.000 thủ hạ đi tòng chinh.
     Quan Chưởng Trung Quân Bình Tây Đại Tướng Quân Nguyễn Văn Trương, cùng với Tống Phúc Lương, Đặng Trần Thương giữ ở Linh Giang, thấy quân Tây Sơn thế mạnh phải lui về giữ Đồng Hới. Nguyễn Vương được tin ấy, liền thân chinh đem đại binh ra tiếp ứng, sai Phạm Văn Nhân và Đặng Trần Thường đem quân ra giữ mặt bộ, sai Nguyễn Văn Trương ra giữ mặt bể.
     Tháng giêng năm Nhâm Tuất (1802), vua Tây Sơn sai Nguyễn Quang Thùy tiến quân lên đánh lũy Trấn Ninh; đánh mãi không đổ. Vua Tây Sơn đã toan rút quân về, nhưng Bùi Thị Xuân không chịu, xin cho ra đốc quân đánh trận. Đánh từ sáng sớm đến chiều tối, chưa bên nào được thua. Bỗng có tin rằng thủy quân của Tây Sơn ở cửa Nhật Lệ (cửa Đồng Hới) đã bị Nguyễn Văn Trương phá tan cả. Quân Tây Sơn khiếp sợ bỏ chạy, tướng là Nguyễn Văn Kiên về hàng nhà Nguyễn. Vua Tây Sơn đem tàn quân chạy về Bắc, để Nguyễn Văn Thận ở lại giữ Nghệ An. Nguyễn Vương phá được quân Tây Sơn ở thành Trấn Ninh rồi đem quân về Phú Xuân, để trung quân Nguyễn Văn Trương giữ Đồng Hới, để Tống Phúc Lương và Đặng Trần Thường giữ Linh Giang.
     Trần Quang Diệu và Vũ Văn Dũng ở Quy Nhơn được tin quân Tây Sơn thua ở Trấn Ninh, liệu chống không nổi, bèn đến tháng 3 năm Nhâm Tuất (1802) bỏ thành Quy Nhơn, đem binh tượng đi đường thượng đạo qua Ai Lao ra Nghệ An, để hội với vua Tây Sơn mà lo sự chống giữ.
     15. Nguyễn Vương lên ngôi tôn.
     Nguyễn Vương từ khi khởi binh ở Gia Định tuy đã xưng Vương, nhưng vẫn theo các Chúa đời trước không đặt niên hiệu. Đến nay khôi phục được Phú Xuân, thanh thế lừng lẫy, bắc phá đại quân của Tây Sơn, nam lấy lại thành Quy Nhơn; đất An Nam bấy giờ từ sông Linh Giang vào đến Gia Định lại thuộc về nhà Nguyễn như trước. Các quan thân thuộc đều xin Nguyễn Vương đặt niên hiệu và lên ngôi tôn. Tháng 5 năm Nhâm Tuất (1802) ngài lập đàn tế cáo trời đất, rồi thiết triều để các quan chầu mừng, và đặt niên hiệu là Gia Long nguyên niên.
     16. Quân Nam ra lấy Bắc Hà.
     Nguyễn Vương đã lên ngôi làm Vua rồi, sai Trịnh Hoài Đức và Ngô Nhân Tĩnh đem các đồ phẩm vật và những ấn sách của nhà Thanh phong cho Tây Sơn sang nộp cho Thanh Triều và xin phong. Ngài lại định ngự giá đi đánh Bắc Hà, bèn sai Nguyễn Văn Trương lĩnh thủy binh, Lê Văn Duyệt và Lê Chất lĩnh bộ binh, hai mặt thủy bộ cùng tiến.
     Tháng 6, quân bộ sang sông Linh Giang tiến lên đóng ở Hà Trung, quân thủy vào cửa Hội Thống rồi lên đánh phá các đồn lũy của Tây Sơn. Quan Trấn Thủ Nghệ An là Nguyễn Văn Thận bỏ thành chạy ra giữ đồn Tiền Lý ở Diễn Châu.
     Bấy giờ Trần Quang Diệu đi đường Ai Lao ra đến châu Quỳ Hợp, xuống huyện Hương Sơn thấy quân nhà Nguyễn đã lấy được Nghệ An rồi, bèn cùng với Bùi Thị Xuân về huyện Thanh Chương, bao nhiêu quân sĩ đều bỏ cả, được mấy hôm hai vợ chồng cùng bị bắt. Còn Vũ Văn Dũng chạy ra đến Nông Cống cũng bị dân bắt được đem nộp.
     Quân Nguyễn Triều kéo tràn ra lấy Thanh Hóa, đi đến đâu quân Tây Sơn chưa đánh đã tan, chỉ trong một tháng đã ra đến Thăng Long.
     Vua Tây Sơn thấy thế mình không chống giữ được nữa, bèn cùng với các em là Nguyễn Quang Thùy, Nguyễn Quang Thiệu, và mấy người bề tôi là bọn đô đốc Tú, và Nguyễn Văn Tứ sang sông Nhị Hà chạy về phía Bắc, nhưng lên đến địa hạt Phượng Nhỡn, bị dân ở đấy bắt được. Nguyễn Quang Thùy tự tử, đô đốc Tú và vợ cũng tự vẫn. Còn vua tôi nhà Tây Sơn mấy người đều bị đóng cũi đem về nộp ở Thăng Long.
     Nhà Tây Sơn khởi đầu từ năm Mậu Tuất (1778), Nguyễn Nhạc xưng đế ở Quy Nhơn, đến năm Nhâm Tuất (1802), cả thảy được 24 năm. Nhưng Nguyễn Nhạc chỉ làm vua từ đất Quảng Nam, Quảng Nghĩa trở vào mà thôi, còn từ Phú Xuân trở ra, thì thuộc về nhà Lê. Đến năm Mậu Thân (1788), vua Quang Trung xưng đế hiệu, rồi ra đánh giặc Thanh, lấy lại đất Bắc Hà, sửa đổi việc chính trị. Từ đó nước Nam mới thuộc về nhà Nguyễn Tây Sơn.
     Vậy kể từ năm Mậu Thân (1788) đến năm Nhâm Tuất (1802) thì nhà Tây Sơn chỉ làm vua được có 14 năm mà thôi. Trong bấy nhiêu năm phải đánh nam dẹp bắc luôn, không mấy lúc nghỉ việc chiến tranh, cho nên nhà Tây Sơn không sửa sang được việc gì. Vả sau khi vua Quang Trung mất rồi, vua thì hèn, quan thì nhũng, chính trị bỏ nát, lòng người oán giận, ai cũng mong mỏi được thời thịnh trị để yên nghiệp mà làm ăn. Bởi vậy cho nên khi vua Thế Tổ Cao Hoàng nhà Nguyễn cất quân ra Bắc, lòng người theo phục, chỉ một tháng trời mà bình được đất Bắc Hà, đem giang sơn về một mối, Nam Bắc một nhà, làm cho nước ta thành một nước lớn ở phương Nam vậy.

CẬN KIM THỜI ĐẠI
THẾ TỔ (1802-1819) NIÊN HIỆU: GIA LONG
     1. Thế Tổ xưng Đế hiệu.
     Thế tổ khởi binh chống nhau với Tây Sơn ở đất Gia Định từ năm Mậu Tuất (1778), kể vừa 24 năm, mới dứt được nhà Tây Sơn, thu phục được giang sơn cũ của chúa Nguyễn khi xưa và họp cả nam bắc lại làm một mối. Khi việc đánh dẹp xong rồi, ngài xưng Đế hiệu, đặt Quốc hiệu là Việt Nam, đóng Kinh đô ở Phú Xuân, tức là thành phố Huế bây giờ. Khi vua Thế Tổ lấy được đất Bắc Hà rồi, ngài xuống chỉ tha cho dân một vụ thuế, và thăng thưởng cho các tướng sĩ. Ngài lại phong tước cho con cháu nhà Lê, nhà Trịnh, cấp cho ruộng đất và trừ phong dịch cho dòng dõi hai họ ấy để giữ việc thờ phụng tổ tiên. Đoạn rồi, ngài đổi Bắc Hà là Bắc Thành, đặt quan tổng trấn, triệu Nguyễn Văn Thành ở Quy Nhơn ra sung chức ấy, để coi mọi việc. Lại đặt ra tam tào là tào Hộ, tào Binh, tào Hình, sai Nguyễn Văn Khiêm, Đặng Trần Thường, và Phạm Văn Đăng ra coi các tào ấy, để giúp Nguyễn Văn Thành. Đến tháng bảy năm Nhâm Tuất (1802), Thế Tổ về Kinh, đem vua tôi nhà Tây Sơn về làm lễ hiến phù ở đền Thái Miếu, rồi đem ra tận pháp trường xử trị. Lại sai quật mả vua Thái Đức Nguyễn Nhạc và vua Thái Tổ Nguyễn Huệ lên, đem vứt thây đi, còn đầu thì đem bỏ giam ở trong ngục tối. Những bọn văn thần nhà Tây Sơn như Ngô Thì Nhiệm, Phan Huy Ích ra hàng, đem nọc ra đánh ở trước Văn miếu, rồi tha cho về. Ngô Thì Nhiệm vì trước có hiềm với Đặng Trần Thường, cho nên đến khi đánh ở văn miếu, Đặng Trần Thường sai người đánh chết.
     Vua Thế Tổ định tội, thưởng công xong rồi, lo sửa sang mọi việc; làm điện Cần Chính để lập thường triều, điện Thái Hòa để lập đại triều; lại sai quân dân xây thành Kinh Đô và Hoàng Thành cùng các thành trì ở ngoài các doanh trấn. Tuy rằng ngài đã đặt niên hiệu, lên ngôi từ năm Nhâm Tuất (1802), nhưng mà đến năm Giáp Tí (1804), tức là Gia Long tam niên, vua nhà Thanh mới sai sứ sang phong vương, và đến năm Bính Dần (1806), ngài mới làm lễ xưng đế hiệu ở đền Thái Hòa. Định triều nghi, cứ ngày rằm và ngày mồng một thiết đại triều; ngày mồng 5, mồng 10, 20 và 25 thì thiết tiểu triều.
     Lúc ngài đánh xong Tây Sơn, thì chính trị trong nước đổ nát, phong tục hủy hoại, việc gì cũng cần sửa sang lại. Bởi vậy ở trong thì ngài chỉnh đốn pháp luật, và mọi việc cai trị cùng là sửa sang phong tục, cấm dân gian không cho lấy việc thần phật mà bày ra rượu chè ăn uống, nghiêm dụ quan lại không được sinh sự nhiễu dân. Ở ngoài thì ngài lo sự giao hiếu với nước Tàu, nước Tiêm, nước Chân Lạp, khiến cho nước Việt Nam lúc bấy giờ trong ngoài đều được yên trị.
     2. Việc Triều chính.
     Ở trong cung, nhà vua không đặt ngôi Hoàng hậu, chỉ có ngôi hoàng phi và các cung tần. Sau khi vua mất, thì tự quân lên ngôi, mới tôn mẹ lên làm Hoàng Thái Hậu. Quan lại trong Triều đại khái theo chế độ nhà Lê, nhưng bỏ chức Tham Tụng và Bồi Tụng tức là chức Tể tướng đời xưa. Mọi việc đều do Lục Bộ chủ trương. Mỗi bộ có quan Thượng Thư làm đầu, quan tả hữu tham tri, tả hữu thị lang, cùng các thuộc viên như là lang trung, viên ngoại lang, chủ sự và bát cửu phẩm thơ lại...
     Bộ Lại: coi việc thuyên bổ quan văn, ban thưởng phẩm cấp, khảo xét công trạng, phong tặng tước ấm, thảo những tờ chiếu sắc cáo mệnh và làm những sổ các hàng quan lại...
     Bộ Hộ: coi việc đinh điền thuế má, tiền bạc chuyển thông, kho tàng chứa chất, hóa vật đắt rẻ
     Bộ Lễ: coi việc triều hộ, khánh hạ, tế tự, tôn phong, cùng là cách thức học hành thi cử, tinh biểu cho người sống lâu, người có tiết nghĩa, phong thụy cho các thần nhân...
     Bộ Binh: coi việc thuyên bổ võ chức, giảng duyệt quân lính, sai khiến quân đi thú hoặc đi đánh dẹp, kén chọn binh đinh, xét người có công người có lỗi về việc binh.
     Bộ Hình: coi việc hình danh pháp luật, tra nghĩ dâng tấu, duyệt lại những tội nặng án ngờ, xét kỹ những tù giam ngục cấm.       
     Bộ Công: coi việc làm cung điện, dinh thự, xây thành, đào hào, tu tạo tàu bè, đặt làm kiểu mẫu, thuê thợ thuyền, mua vật liệu v.v....
     Ngoài lục bộ lại có Đô Sát Viện để giữ việc can gián vua, và đàn hạch các quan. Cấp sự trung các khoa và giám sát ngự sử các đạo, đều thống thuộc về viện ấy. Trong viện có tả hữu đô ngự sử và tả hữu phó đô ngự sử đứng đầu.
     Bấy giờ vua Thế Tổ lại đặt ra Tào Chính để coi việc vận tải cùng là thuế má tàu bè. Có quan Tào Chính Sứ và Tào Phó Sứ làm đầu.
     Các địa phương thì lúc bấy giờ từ Nam chí Bắc chia ra làm 23 trấn và 4 doanh. Từ Thanh Hóa ngoại (tức là Ninh Bình bây giờ) trở ra, gọi là Bắc Thành, thống cả 11 trấn, chia ra làm 5 nội trấn: Sơn Nam Thượng, Sơn Nam Hạ, Sơn Tây, Kinh Bắc, và Hải Dương; 6 ngoại trấn: Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên. Từ Bình Thuận trở vào gọi là Gia Định Thành, thống cả 5 trấn: Phiên An (địa hạt Gia Định), Biên Hòa, Vĩnh Thanh (tức là Vĩnh Long và An Giang), Vĩnh Tường và Hà Tiên. Còn ở quãng giữa nước, thì đặt Thanh Hóa Trấn (gồm cả Thanh Hóa nội, Thanh Hóa ngoại), Nghệ An trấn, Quảng Nghĩa trấn, Bình Định trấn, Phú Yên trấn, Bình Hòa trấn (tức là Khánh hòa) và Bình Thuận trấn. Đất kinh kỳ thống bốn doanh là: Trực Lệ Quảng Đức doanh (tức là Thừa Thiên bây giờ), Quảng Trị doanh, Quảng Bình doanh, Quảng Nam doanh. Ở Bắc Thành và Gia Định Thành đều đặt chức tổng trấn, và phó tổng trấn, để coi mọi việc. Ở các trấn thì đặt quan lưu trấn hay là quan trấn thủ, quan cai bạ và quan ký lục để coi việc cai trị trong trấn. Trấn lại chia ra phủ, huyện, châu, đặt chức tri phủ, tri huyện, tri châu để coi việc cai trị. Những trấn ở Nghệ An, Thanh Hóa và 5 nội trấn ở Bắc Thành, thì dùng những quan cựu thần nhà Lê làm quan cai trị. Còn 6 ngoại trấn ở Bắc Thành, giao quyền cai trị cho những thổ hào sở tại.
     3. Binh chế.
     Khi vua Thế Tổ đánh được Tây Sơn rồi, ngài ban thưởng cho các tướng sĩ, tặng phong và làm đền thờ những người tử trận, giảm binh lính, từ Quảng Bình vào Bình Thuận thì cứ ba tên đinh kén lấy một tên lính; tự Biên Hòa trở vào thì cứ 5 tên đinh kén lấy một tên lính; tự Hà Tịnh trở ra đến 5 nội trấn ở Bắc Thành thì cứ 7 tên đinh kén lấy một tên lính. Còn 6 ngoại trấn là Tuyên Quang, Hưng Hóa, Cao Bằng, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Yên thì cứ 10 tên đinh kén lấy một tên lính. Ở chỗ Kinh thành thì đặt ra thân binh, cấm binh, tinh binh. Lính thân binh mỗi vệ có 500 người và có 50 người tập quân nhạc. Ở các trấn thì đặt ra lính cơ, lính mộ. Lại đặt biền binh ban lệ, nghĩa là các binh lính chia ra làm 3 phiên, 2 phiên về quán, còn một phiên ở tại ban luân lưu thay đổi cho nhau. Những binh khí thì dùng gươm giáo, mã tấu, và lại có súng lớn bằng đồng gọi là súng đại bác, súng nhỏ gọi là súng thạch cơ điểu thương, nghĩa là bắn thì mổ bằng máy đá lửa. Ở chỗ kinh thành lập ra ba sở xạ trường để quân lính tập bắn. Ở các cửa bể đều làm đồn đặt súng để phòng giữ và để xem xét những tàu bè ngoại quốc đi lại. Nhà Vua bắt đầu chú trọng thành lập thủy quân phòng vệ biển.
     4. Việc Tài chính.
     Thuế đinh, thuế điền đều định lại cả. Thuế điền thì chia làm 3 hạng: nhất đẳng điền, nhị đẳng điền ; tam đẳng điền. Lệ giảm thuế, Vụ thuế, Đinh bạ, Điền bạ, Đúc tiền, Thước đo, Phép cân...
     5. Công vụ.
     Việc giao thông; Đường Quan Lộ, Sông ngòi và đê điều,
     6. Pháp luật.
     Nguyên khi trước vẫn theo luật nhà Lê, nhưng nay nhà Nguyễn đã nhất thống cả Nam Bắc, vua Thế Tổ cho đình thần lập ra pháp luật để cai trị. Năm Tân Mùi (1811) sai Nguyễn Văn Thành làm tổng tài, coi việc soạn ra sách luật; lấy luật cũ của đời Hồng Đức nhà Lê, mà tham chước với luật nhà Thanh làm thành một bộ, cả thảy 22 quyển, có 398 điều. Đến năm Ất Hợi (1815), thì in sách luật ấy phát ra mọi nơi. Bộ luật ấy tuy nói theo luật Hồng Đức nhưng kỳ thực là chép luật của nhà Thanh và chỉ thay đổi ít nhiều mà thôi.
     7. Việc Học hành.
     Thời bấy giờ nhờ có võ công mới dựng nên cơ nghiệp, các quan đầu triều là quan ngũ quân đô thống, và quan tổng trấn Nam Bắc hai thành đều là quan võ. Vua Thế Tổ cho rằng cần phải có võ có văn nên chăm lo việc học hành thi cử trong nước. Ngài lập nhà Văn Miếu ở các doanh các trấn, thờ đức Khổng tử, để tỏ lòng trọng Nho học. Đặt Quốc Tử Giám ở Kinh đô, để dạy con các quan và các sĩ tử. Mở khoa thi Hương để kén lấy những người có học hành ra là quan. Đặt thêm chức đốc học ở các trấn, và dùng những người có khoa mục ở đời nhà Lê, để coi việc dạy dỗ. Vua Thế Tổ lo cả đến địa dư và quốc sử, bởi vậy ngày sai quan Binh Bộ Thượng Thư là Lê Quang Định kê cứu ở trong các trấn các doanh, tự Lạng Sơn đến Hà Tiên làm thành sách "Nhất Thống Địa Dư Chí". Đến năm Bính Dần (1806), bộ sách ấy làm xong cả thảy được 10 quyển. Năm tân mùi (1811), ngài sai quan tìm những sách dã sử nói chuyện nhà Lê và nhà Nguyễn Tây Sơn để sửa lại quốc sử. Thời bấy giờ văn quốc âm cũng thịnh lắm. Một đôi khi nhà vua cũng dùng chữ nôm mà làm văn tế. Bài văn tế tướng sĩ khi quan Tiền quân Nguyễn Văn Thành, tổng trấn Bắc Thành ra chủ tế là một bài văn chương đại bút. Chuyện "Hoa Tiên" của ông Nguyễn Huy Tự, "Truyện Thúy Kiều" của quan Hữu Tham tri bộ Lễ là ông Nguyễn Du, cũng phát hiện ra thời bấy giờ.
     8. Việc giao thiệp với nước Tàu.
     Khi vua Thế Tổ dứt được nhà Nguyễn Tây Sơn và lấy được đất Bắc Hà rồi, sai quan thượng thư Binh Bộ là Lê Quang Định làm chánh sứ sang Tàu cầu phong và xin đổi quốc hiệu là Nam Việt, lấy lẽ rằng Nam là An Nam và Việt là Việt Thường. Nhưng vì đất Nam Việt đời nhà Triệu ngày trước gồm cả đất Lưỡng Quảng, cho nên Thanh Triều mới đổi chữ Việt lên trên, gọi là Việt Nam để cho khỏi lầm với tên cũ. Đến năm giáp tí (1804) Thanh Triều sai quan án sát sứ tỉnh Quảng Tây là Tề Bố Sâm sang tuyên phong. Đoạn rồi, vua sai Lê Bá Phẩm làm chánh sứ đem đồ cống sang tạ và từ đó cứ chiếu lệ ba năm một lần sang cống.
     9. Việc giao thiệp với nước Chân Lạp và nước Tiêm La.
     Nguyên lúc còn Lê Triều thì chúa Nguyễn vẫn giữ quyền bảo hộ nước Chân Lạp. Sau vua nước ấy là Nặc Ông Tôn bị anh em hiếp chế, phải chia quyền ra làm ba, để cho Nặc Ông Vinh làm vua đầu, mình làm vua thứ hai, em là Nặc Ông Thâm làm vua thứ ba. Được ít lâu Nặc Ông Vinh giết cả Nặc Ông Tôn và Nặc Ông Thâm giữ lấy quyền làm vua một mình.
     Lúc bấy giờ Nguyễn Vương còn ở Gia Định mới sai Đỗ Thanh Nhân sang đánh Nặc Ông Vinh và lập con Nặc Ông Tôn là Nặc Ông Ấn lên làm vua. Nặc Ông Ấn bấy giờ mới có 8 tuổi. Nguyễn Vương sai Hồ Văn Lân ở lại. Nhưng đến khi đất Gia Định thất thủ quyền bảo hộ nước Chân Lạp thuộc về nước Tiêm La. Năm Bính Thìn (1796), Nặc Ông Ấn mất, truyền nôi lại cho con là Nặc Ông Chân. Vua Tiêm La sai sứ sang phong, như thế là vua Chân Lạp phải thần phục vua Tiêm La. Đến năm Đinh Mão (1807) Nặc Ông Chân lại bỏ Tiêm La mà xin về thần phục vua Việt Nam ta, theo lệ cống tiến, cứ ba năm một lần.
     Nặc Ông Chân có ba người em là Nặc Ông Nguyên, Nặc Ông Lem, Nặc Ông Đôn, muốn tranh quyền của anh, sang cầu cứu Tiêm La. Tiêm La bắt Nặc Ông Chân phải chia đất cho các em. Nặc Ông Chân không chịu, quân Tiêm La bèn sang đánh thành La Bích. Nặc Ông Chân chạy sang Tân Châu, rồi dâng biểu cầu cứu. Quan tổng trấn Gia Định là Nguyễn Văn Nhân tâu về Triều đình.
     Năm Tân Mùi (1811), vua Thế Tổ cho sứ trách nước Tiêm La sinh sự. Năm sau, vua Tiêm La sai sứ sang phúc đáp là muốn giảng hòa cho anh em Nặc Ông Chân. Vậy xin để Việt Nam xử trí. Qua năm Quý Dậu (1813) vua Thế Tổ sai quan tổng trấn Gia Định Thành là Lê Văn Duyệt đem hơn 10.000 quân, hội với sứ nước Tiêm La, đưa Nặc Ông Chân về nước. Nước Tiêm La tuy không dám kháng cự, nhưng vẫn lưu quân ở lại giữ tỉnh Bắc Tầm Bon (Battambang), nói rằng để đất ấy phong cho các em Nặc Ông Chân. Lê Văn Duyệt mới viết thư sang trách nước Tiêm La về điều ấy, quân Tiêm mới rút về. Lê Văn Duyệt dâng sớ xin xây thành Nam Vang (Phnompenh) và thành La-lêm. Khi những thành ấy xây xong, thì vua Thế Tổ sai Nguyễn Văn Thụy đem 1.000 quân ở lại bảo hộ nước Chân Lạp. Từ đó quyền bảo hộ Chân Lạp lại về nước ta.
      10. Việc giao thiệp với nước Hồng Mao.
     Năm quý hợi (1803), nước Hồng Mao (nước Anh) sai sứ là ông Robert đem đồ phương vật sang xin cho vào mở cửa hàng buôn bán ở Trà Sơn, thuộc Quảng Nam. Vua Thế Tổ không nhận đồ, và cũng không cho mở cửa hàng. Sau người Hồng Mao còn đưa thư sang hai ba lần nữa, nhưng Vua  vẫn từ chối không chịu.
     11. Việc giao thiệp với nước Pháp.
     Đối với nước Pháp thì vua Thế Tổ có biệt nhỡn hơn, là vì khi ngài còn gian truân, ngài có nhờ ông Bá Đa Lộc đem người sang giúp. Khi xong việc đánh dẹp rồi, còn có Chaigneau, Vannier và Despiau làm quan tại triều, mà vua Thế Tổ cũng có lòng trọng đãi, cho mỗi người 50 lính hầu, và đến buổi chầu thì không bắt lạy.
     Khi vua Thế Tổ làm Vua ở nước Việt Nam, thì Nã Phá Luân đệ nhất (Napoleon I) làm vua bên nước Pháp, phải đánh nhau với các nước nên tàu Pháp cũng không hay đi lại Viễn Đông. Đến khi Nã Phá Luân thất thế, dòng dõi nhà vua cũ lại trung hưng lên, chiến tranh đã yên, thì mới có tàu sang buôn bán ở Á đông. Năm Đinh Sửu (1817), có chiếc tàu "La Paix" của hiệu Balguerie, Sarget et Cie chở đồ hàng sang bán, nhưng hàng ấy người Việt Nam không dùng được, phải chở về. Vua Thế Tổ tha không đánh thuế. Qua tháng sáu năm ấy, chiếc tàu binh tên là Cybèle của nước Pháp vào cửa Đà Nẵng. Quan thuyền trưởng là De Kergarion bá tước nói rằng Pháp Hoàng Louis XVIII sai sang xin thi hành những điều ước do Bá Đa Lộc ký năm 1787 về việc nhường cửa Đà Nẵng và đảo Côn Lôn. Vua Thế Tổ sai quan ra trả lời rằng những điều ước ấy nước Pháp trước đã không thi hành thì nay bỏ, không nói đến nữa. Năm Kỷ Mão (1819), chiếc tàu buôn ba cột tên là "Rose" và "Le Henri" vào cửa Đà Nẵng. Lần này hàng hóa đem sang bán được, lại chở chè và lụa về. Năm ấy Chaigneau xin nghỉ ba năm, đem vợ con xuống tàu "Le Henri" về Pháp.
     12. Sự giết hại công thần.
     Những người công thần như Nguyễn Văn Thành và Đặng Trần Thường đều bị giết hại trong khi vua Thế Tổ còn đang trị vì. Nguyễn Văn Thành, nguyên là người ở Thừa Thiên, nhưng vào ở Gia Định đã hai ba đời. Theo vua Thế Tổ từ khi ngài mới khởi binh đánh Tây Sơn, chịu hết mọi đường khổ sở. Sau ra đánh Tây Sơn ở Quy Nhơn, lập được công lớn, đứng đầu hàng công thần.
     Khi vua Thế Tổ ra lấy Bắc Hà, triệu ông ra làm tổng trấn, giao cho xếp đặt mọi việc, chỉ có mấy năm mà đất Bắc Hà được yên trị. Sau về Kinh làm chức trung quân. Ông có học thức, cho nên triều đình cử làm tổng tài việc làm sách luật và quốc sử. Nguyễn Văn Thành có người con tên là Nguyễn Văn Thuyên thi đậu cử nhân, thường hay làm thơ để giao du với những kẻ văn sĩ. Bấy giờ nghe người ở Thanh Hóa là Nguyễn Văn Khuê và Nguyễn Đức Nhuận có tiếng hay chữ, Văn Thuyên làm bài thơ sai tên Nguyễn Trương Hiệu cầm đi mời vào chơi. Tưởng bài thơ là lời lẽ của thiếu niên nói ngông chơi, không ngờ tên Hiệu đưa cho Nguyễn Hữu Nghi xem, Hữu Nghi xui tên Hiệu đi cáo với Lê Văn Duyệt. Lê Văn Duyệt vốn ghét Nguyễn Văn Thành, nay thấy bài thơ này đem vào tâu vua, vua sai bắt Nguyễn Văn Thuyên bỏ ngục. Bấy giờ triều thần có nhiều người bẻ tội ông Thành. Một hôm bãi triều rồi, ông Thành chạy theo nắm lấy áo vua mà kêu khóc rằng: "Thần theo Bệ Hạ từ thủa nhỏ đến bây giờ, nay không có tội gì mà bị người ta cấu xé, Bệ Hạ nỡ lòng nào ngồi nhìn để người ta giết thần mà không cứu?". Vua Thế Tổ giật áo đi vào cung, rồi từ đó cấm không cho ông Thành vào chầu và sai Lê Văn Duyệt đem con Nguyễn Văn Thành ra tra hỏi, bắt phải nhận tội. Nguyễn Văn Thành sợ tội, uống thuốc độc tự tử, Nguyễn Thuyên thì phải chém.
     Đặng Trần Thường người ở Chương Đức (Chương Mỹ, tỉnh Hà Đông) có tài văn học, trốn Tây Sơn vào Gia Định theo giúp vua Thế Tổ làm đến Binh Bộ Thượng Thư. Sau vì làm gian sắc phong thần cho Hoàng Ngũ Phúc là tướng nhà Trịnh vào bậc phúc thần, triều đình làm án phải tội chém. Nhưng rồi lại được tha. Đặng Trần Thường vốn có hiềm với Lê Chất nên Lê Chất bới những việc như khi ở Bắc Thành, có chiếm giữ đầm ao và ẩn lậu đinh điền..nên bị bắt bỏ ngục và xử phải tội giảo. Tương truyền rằng Đặng Trần Thường ở trong ngục có làm bài "Hàn Vương Tôn Phú" bằng quốc âm để ví mình như Hàn Tín đời Hán.
     13. Xét công việc của vua Thế Tổ.
     Vua Thể tổ là ông vua có tài trí, rất khôn ngoan, trong 25 năm trời, chống nhau với Tây Sơn, trải bao nhiêu lần hoạn nạn, thế mà không bao giờ ngã lòng, cứ một niềm lo sợ khôi phục. Ngài lại có cái đức tính rất tốt của những kẻ lập nghiệp lớn, là cái đức tính biết chọn người mà dùng, khiến cho những kẻ hào kiệt ai cũng nức lòng theo giúp. Bởi vậy nên không những ngài khôi phục được nghiệp cũ, mà lại thống nhất được sơn hà và sửa sang được mọi việc, làm cho nước ta lúc bấy giờ thành một nước cường đại, từ xưa đến nay, chưa bao giờ từng thấy. Công nghiệp của ngài thì to thật, tài trí của ngài thì cao thật, nhưng chỉ hiềm có một điều là khi công việc xong rồi, ngài không bảo toàn cho những công thần, mà lại lấy những chuyện nhỏ nhặt đem giết hại những người có công với ngài, khiến cho hậu thế ai xem đến những chuyện ấy, cũng nhớ đến vua Hán Cao, và lại thở dài mà thương tiếc cho những người ham mê hai chữ công danh về đời áp chế ngày xưa.
     Vua Thế Tổ mất năm Kỷ Mão (1819), trị vì được 18 năm, thọ 59 tuổi, miếu hiệu là Thế Tổ Cao Hoàng Đế.

VUA MINH MẠNG


THÁNH TỔ (1820-1840) NIÊN HIỆU : MINH MỆNH
     1. Đức độ Vua Thánh Tổ.
     Tháng giêng năm Canh Thìn (1820), Hoàng Thái Tử húy là Đảm lên ngôi, đặt niên hiệu là Minh Mệnh. Vua Thánh Tổ là một ông vua có tư chất minh mẫn, có tính hiếu học và lại hay làm; phàm có việc gì, ngài cũng xem xét đến, và có châu phê rồi mới được thi hành. Ngài tinh thâm Nho học, sùng đạo Khổng Mạnh, cho nên không ưa đạo mới, cho là một tà đạo lấy trời thánh ra mà làm mê hoặc lòng dân. Bởi vậy, ngài mới nghiêm cấm và trừng trị những người theo đạo Gia Tô.
     2. Việc Chính trị trong nước.
     Vua Thánh Tổ đã 30 tuổi mới lên ngôi Vua, cho nên việc triều chính ngài đã am hiểu lắm. Việc gì ngài cũng muốn biết. Có khi xong buổi chầu rồi, ngài đòi một vài quan đại thần lên bàn mọi việc kinh lý và hỏi những sự tích đời xưa, những nhân vật và phong tục ở các nước xa lạ. Ngài chăm xem xét mọi việc, có khi đêm thắp đèn xem chương, sớ, đến trống hai, trống ba mới thôi. Ở trong triều, thì ngài đặt thêm ra các tự và các viện. Bấy giờ Nội Các và Cơ Mật Viện là quan trọng hơn cả.
     3. Nội các.
     Đời vua Thế Tổ đã đặt Thị Thư Viện làm chốn cơ yếu trong điện, để có điều gì thì Vua hỏi han và làm các việc như biểu, sách, chế, cáo, Minh Mệnh Chính Yếu, quyển Cần Chính. chương, tấu, sắc, mệnh...Năm Canh Thìn (1820) là năm Minh Mệnh nguyên niên, vua Thánh Tổ cải làm Văn Thư Phòng; đến năm Minh Mệnh thứ mười (1829), đổi làm Nội Các, lấy quan tam tứ phẩm ở các bộ, viện, vào quản lĩnh mọi việc.
     4. Cơ Mật Viện.
     Năm Giáp Ngọ (1834) là năm Minh Mệnh thứ 15, nhân vì việc quân quốc cơ yếu là việc rất quan trọng, vua Thánh Tổ mới theo như Khu Mật Viện nhà Tống và Quân Cơ xứ nhà Thanh mà đặt ra Cơ Mật Viện. Các quan đại thần sung chức trong viện ấy thì dùng 4 viên, văn võ từ tam phẩm trở lên, phụng chỉ kén dùng. Thuộc viên thì có viên ngoại lang, chủ sự, tư vụ, biên tu, đều kén ở trong các bộ viện ra sung bổ. Các quan đại thần ở Cơ Mật Viện có đặc chỉ cho đeo kim bài để phân biệt với các quan khác. Kim bài khởi đầu có từ đấy.
     5. Tôn Nhân phủ.
     Năm Bính Thân (1836) là năm Minh Mệnh thứ 17, vua Thánh Tổ đặt ra Tôn Nhân Phủ và đặt quan chức để coi mọi việc ở trong họ nhà Vua. Nhà vua thờ tiên tổ có 7 miếu: những miếu phía tả gọi là chiêu, những miếu phía hữu gọi là mục. Con cháu các dòng chiêu hay là mục phải phân biệt chi nào ra chi ấy. Đặt tôn nhân lệnh 01 người, tả hữu tôn chính 02 người, tả hữu tôn nhân 02 người, để coi việc Hoàng tộc và việc phân biệt tự hàng chiêu hàng mục, ghi chép người thân người sơ, việc nuôi nấng và cấp tước lộc cho mọi người trong Hoàng tộc; lại đặt ra hữu tôn khanh 02 người, tả hữu tá lý 02 người để coi thứ trật mọi người tôn thất và cấp dưỡng cho kẻ cô ấu, giúp đỡ việc tang hôn..
     6. Quan chế.
     Vua Thánh Tổ lại đặt các phẩm cấp quan chế, từ nhất phẩm đến cửu phẩm, mổi phẩm chia ra làm chánh và tòng hai bậc.
     7. Đặt Tổng đốc, Tuần phủ ở các tỉnh.
     Trước đây nước Nam ta chia làm từng trấn, có quan Trấn Thủ, hay là quan Lưu Trấn để coi việc. Từ đời Gia Long trở đi, ở Bắc Thành và Gia Định Thành đặt quan Tổng Trấn và quan Hiệp Trấn, để coi việc quân và việc dân trong cả toàn xứ. Đến năm Tân Mão (1831) là năm Minh Mệnh thứ 12, vua Thánh Tổ mới theo lối nhà Thanh, đổi trấn làm tỉnh và đặt chức Tổng đốc, Tuần phủ, Bố chính sứ, Án sát sứ và Lĩnh binh.
     8. Lương bổng của các quan viên.
     Năm Kỷ Hợi (1839) là năm Minh Mệnh thứ 20, vua Thánh Tổ định lương bổng đồng niên và tiền xuân phục của các quan viên.
     9. Tiền Dưỡng liêm.
     Vua cấp một khoản tiền để các quan phụng sự mà không tham nhũng.
     10. Sự Học hành thi cử.
     Đời vua Thế Tổ thì chỉ có thi Hương, đến năm Nhâm Ngọ (1822) Minh Mệnh thứ 3, mới mở khoa thi Hội, thi Đình để lấy Tiến sĩ, đến năm Minh Mệnh thứ 10 (1829) nhà vua lại cho những người trúng cách, nhưng không cập phân, được đỗ phó bảng. Phó bảng khởi đầu có từ đấy.
     11. Sách vở.
     Vua Thánh Tổ mới lên ngôi, đã lo việc làm sách vở; ngài đặt Quốc Sử Quán để góp nhặt những chuyện làm quốc sử.
     SỰ GIẶC GIÃ
     1. Phan Bá Vành.
     Năm Minh Mệnh thứ 7 (1826), ở Nam Định có Võ Đức Cát cùng với Phan Bá Vành và Nguyễn Hạnh khởi binh đánh phủ Trà Lý và Lân Hải, giết quan thủ ngự là Đặng Đình Miễn và Nguyễn Trung Diễn. Quan trấn thủ ở Nam Định là Lê Mậu Cúc đem quân xuống đánh, cũng bị giặc giết mất. Quan quân ở các trấn phải về tiễu trừ, bắt được tên Võ Đức Cát. Còn tên Vành và dư đảng thì chạy tan cả. Nhưng đến tháng chạp năm ấy, Phan Bá Vành và Nguyễn Hạnh lại thông với đảng giặc Khánh đi cướp ở ngoài bể, rồi lại đem quân về đánh phá ở huyện Tiên Minh và huyện Nghi Dương ở Hải Dương. Nhà vua thấy thế giặc to lắm, bèn sai quan Tham biện Thanh Hóa là Nguyễn Công Trứ, quan Tham biện Nghệ An là Nguyễn Đức Nhuận đem binh thuyền ở Thanh, Nghệ ra cùng với quan Hiệp trấn Bắc thành là Nguyễn Hữu Thận đi đánh giặc. Tháng giêng năm Đinh Hợi (1827) là năm Minh Mệnh thứ 8, Vành lại về đánh lấy phủ Thiên Trường và phủ Kiến Xương, sau lại về vây quan quân ở chợ Quán. Phạm Văn Lý và Nguyễn Công Trứ đem quân đến đánh giải vây, Vành thua chạy về giữ Trà Lũ. Quan quân vây đánh, bắt được Vành và cả đảng hơn 765 người.
     2. Lê Duy Lương.
     Dẹp xong Phan Bá Vành, trong xứ tạm yên nhưng dòng dõi nhà Lê muốn khôi phục nên tháng ba năm Quý Tị (1833) là năm Minh Mệnh thứ 14, ở Ninh Bình có Lê Duy Lương, là con cháu nhà Lê nổi lên, xưng là Đại Lê Hoàng Tôn, cùng với bọn thổ ti là Quách Tất Công, Quách Tất Tế, Đinh Thế Đức, Đinh Công Trịnh, đem binh đi đánh phá các phủ huyện và chiếm giữ được 3 châu huyện là Lạc Thổ, Phụng Hóa và Yên Hóa. Lê Duy Lương lại sai quân đến vây đánh thành Hưng Hóa nguy cấp lắm.
     Vua Thánh Tổ sai quan tổng đốc Nghệ Tĩnh là Tạ Quang Cự đem quân ra Ninh Bình cùng với Tổng đốc Thanh Hóa là Nguyễn Văn Trọng đi đánh Lê Duy Lương. Lê Duy Lương ở Ninh Bình thế cô lắm, chỉ được vài ba tháng thì bị bắt, đóng cũi giải về Kinh trị tội. Còn bọn Quách Tất Công, Quách Tất Tế cũng tan. Vì có chuyện Lê Duy Lương dấy binh nên nhà vua truyền bắt dòng dõi nhà Lê đày vào ở Quảng Nam, Quảng Nghĩa, Bình Định, cứ chia cho 15 người ở một huyện và phát cho 10 quan tiền và 2 mẫu ruộng để làm ăn.
     5. Nông Văn Vân.
     Ở Bắc còn đang dẹp loạn Lê Duy Lương chưa xong, thì ở Nam Lê Văn Khôi làm phản, chiếm giữ thành Gia Định. Nguyên tên Khôi là người Bắc ở mạn Tuyên Quang, Cao Bằng nên nhà vua sai quan tìm bắt anh em của tên Khôi đem về Kinh làm tội. Bấy giờ ở Tuyên Quang có người anh vợ tên Khôi là Nông Văn Vân bị quan bắt bớ, bèn nổi lên đánh phá trong hạt Tuyên Quang, Thái Nguyên, Cao Bằng và Lạng Sơn. Giặc Nông khởi từ tháng 7 năm Quý Tị (1833) cho đến tháng 3 năm Ất Mùi (1835). Nông Văn Vân làm Tri châu Bảo Lạc. Nhân thấy quan quân tìm bắt họ hàng Lê Văn Khôi, bèn nổi lên tự xưng là Tiết Chế Thượng Tướng quân, và bắt viên tỉnh phái thích chữ vào mặt rằng: "Quan tỉnh hay ăn tiền của dân", rồi đuổi về. Nông Văn Vân chia quân ra đánh phá các tỉnh, quan sở tại chống không nổi, phải xin quân cứu viện. Vua Thánh Tổ được tin ấy, bèn sai Sơn Hưng Tuyên Tổng Đốc là Lê Văn Đức làm Tam Tuyên Tổng Đốc Quân Vụ, và sai Hải An thự tổng đốc là Nguyễn Công Trứ làm tham tán, đem quân hội với Ninh Thái Tổng Đốc là Nguyễn Đình Phổ đi tiễu trừ giặc Nông.
     Tháng chạp năm Quý Tị (1833) quân Tạ Quang Cự giải được vây tỉnh Lạng Sơn và lấy lại thành Cao Bằng. Lê Văn Đức và Nguyễn Công Trứ vào đến Vân Trung (tức là Bảo Lạc) sào huyệt của giặc, Nông Văn Vân phải chạy trốn sang Tàu.
     Đến tháng 9 năm Giáp Ngọ (1834) Lê Văn Đức và Phạm Văn Điển đi từ Sơn Tây lên Tuyên Quang; Tạ Quang Cự, Nguyễn Tiến Lâm, và Hồ Hữu đi từ Cao bằng; Nguyễn Đình Phổ và Nguyễn Công Trứ đi từ Thái Nguyên, ba mặt tiến quân, đi đến đâu quân giặc tan đến đấy. Tháng chạp năm ấy, cả ba đạo cùng đến hội ở Vân Trung, rồi sai người đưa thư sang nói với quan nhà Thanh không cho quân giặc chạy sang. Nông Văn Vân chạy sang bị quân Tàu đuổi bắt, lại trở về Tuyên Quang.
     Tháng 3 năm Ất Mùi (1835), Phạm Văn Điển được tin biết chỗ tên Văn Vân ở, liền đem quân đi đuổi. Văn Vân chạy ẩn vào trong rừng, Phạm Văn Điển vây 4 mặt, rồi phóng hỏa đốt rừng. Văn Vân bị chết cháy. Quan quân chém lấy đầu đem về Kinh báo tiệp.
     6. Giặc ở Nam Kỳ.
     Đất Nam Kỳ là đất của nhà Nguyễn khai sáng ra nhưng vì vua Thánh Tổ không dong thứ cho những cựu thần, lại có những người gian nịnh ức hiếp người nên mới ra sự loạn.
     Lê Văn Duyệt làm tổng trấn Gia định thành, có uy quyền, lòng người ai cũng kính phục. Chỉ vì ông ấy là quan võ, tính khí nóng nảy, vua Thánh Tổ không bằng lòng nhưng làm ngơ vì ông ấy là bậc khai quốc công thần. Đến khi ông ấy mất, vua Thánh Tổ bãi chức Tổng Trấn thành Gia Định và đặt chức tổng đốc, tuần phủ, bố chính, án sát, lĩnh binh, như các tỉnh ở ngoài Bắc.
     Tỉnh Phiên An (Gia Định) có Nguyễn Văn Quế làm tổng đốc, Bạch Xuân Nguyên làm bố chính, Nguyễn Chương Đạt làm án sát. Bạch Xuân Nguyên vốn người tham lam tàn ác; khi đến làm bố chính ở Phiên an, nói rằng phục mật chỉ truy xét Lê Văn Duyệt, rồi đòi hỏi chứng cớ, trị tội bọn tôi tớ của ông Duyệt ngày trước. Trong số đó có Lê Văn Khôi, nguyên trước là Nguyễn Hữu Khôi, người ở Cao Bằng, nhân cớ khởi binh làm loạn, bị quan quân đuổi đánh, mới chạy vào Thanh Hóa, gặp Lê Văn Duyệt xin hàng. Ông Duyệt tin dùng cho làm con nuôi, đổi tên họ là Lê Văn Khôi, rồi đem về Gia Định cất nhắc cho làm đến chức Phó Vệ Úy. Lê Văn Khôi bị bắt giam vừa sợ tội bàn mưu dấy loạn; những người có tội ở Bắc Kỳ đem đày vào đều theo Khôi.
     Đêm ngày 18 tháng năm, Quý Tị (1833) là năm Minh Mệnh thứ 14, Khôi cùng với 27 người lính vào dinh quan Bố, giết cả nhà Bạch Xuân Nguyên, gặp quan tổng đốc là Nguyễn Văn Quế đem người đến cứu, chúng cũng giết nốt, quan Án và quan Lãnh thì chạy thoát được.
     Bấy giờ quân kinh đóng ở Phiên An phần nhiều theo về Lê Văn Khôi. Lê Văn Khôi bèn tự xưng làm Đại Nguyên Súy, phong cho đảng mình là bọn Thái Công Triều và Lê Đắc Lực quản trung quân, Nguyễn Văn Đà và Nguyễn Văn Tông quản tiền quân, Võ Vĩnh Tiền và Võ Vĩnh Tài quản hữu quân, Võ Vĩnh Lộc và Nguyễn Văn Bột quản hậu quân, Lưu Tín và Trần Văn Tha quản thủy quân, Nguyễn Văn Tâm và Nguyễn Văn Chân quản tượng quân...Lại đặt các quan chức như một triều đình riêng. Lê Văn Khôi sai Thái Công Triều đem quân đi lấy các tỉnh thành, chỉ trong một tháng mà 6 tỉnh Gia Định thuộc về giặc cả.
     Triều đình được tin, sai Tống Phúc Lương làm Thảo Nghịch tả tướng quân và Nguyễn Xuân làm tham tán, sai Phan Văn Thúy làm Thảo nghịch hữu tướng quân, Trương Minh Giảng làm tham tán, cùng với Bình Khấu tướng quân là Trần Văn Năng đem thủy bộ binh tượng vào đánh Lê Văn Khôi. Khi quan quân vào đến Gia Định không biết tại cớ gì, mà trung quân của ngụy là Thái Công Triều xin về đái tội lập công. Nguyên Thái Công Triều là người ở Thừa Thiên, trước làm quan vệ úy, coi vệ biền binh đóng ở Gia Định, sau theo tên Khôi làm phản. Nay lại trở về với triều đình, đem quân đi đánh Lê Văn Khôi lấy lại các tỉnh. Lê Văn Khôi biết thế không chống nổi, vào thành Phiên An đóng cửa lại, rồi chia quân ra chống giữ, và lại sai người đi sang Tiêm La cầu cứu. Quân Tiêm nhân dịp ấy, chia làm mấy đạo sang đánh nước Nam.
     Quan quân một mặt đánh đuổi quân Tiêm, một mặt vây đánh thành Phiên An, Lê Văn Khôi hết sức chống giữ, nhưng đến tháng chạp năm ấy thì phải bệnh chết. Quân ngụy ở trong thành chống giữ mãi, gần 3 năm quan quân mới hạ được thành.
     Thành Phiên An là thành của ông Lê Văn Duyệt xây xong năm Minh Mệnh thứ 11 (1830). Xây toàn bằng đá ong, thành cao và rộng, hào sâu, ở trong thành lại có đủ cả lương thực khí giới, cho nên quan quân đánh thành lần nào cũng bị chết hại nhiều người, mà không lấy được. Mãi đến tháng 7 năm Ất Tị (1835), quân ngụy ở trong thành đã mỏi mệt, tướng quân Nguyễn Xuân và Nguyễn Văn Trọng mới hạ được thành vào bắt giết cả thảy đến 1.831 người, đem chôn vào một chỗ, nay gọi là "mả ngụy". Còn những người thủ phạm thì đóng cũi đem về Kinh trị tội.
     7. Án Lê Văn Duyệt và Lê Chất:
     - Lê Văn Duyệt.
     Quan quân bình xong giặc Lê Văn Khôi rồi vua Thánh Tổ sai phá thành Phiên An đi, xây lại chỗ khác và ngài xuống chiếu định truy tội Lê Văn Duyệt và tội Lê Chất. Từ khi tên Khôi khởi loạn, vua Thánh Tổ thường ban trách Lê Văn Duyệt che chở quân phỉ đảng, để gây nên hoạn loạn. Năm Ất Mùi (1835), ở Đô Sát Viện có Phan Bá Đạt dâng sớ nói rằng: Lê Văn Duyệt trước ở Gia Định, lấy bọn nghịch Khôi, nghịch Nhã, làm trảo nha, lấy binh Bắc Thuận, Hồi Lương làm tâm phúc. Bọn ấy vốn là quân hung ác, không phải là người lương thiện, cho nên Duyệt mất chưa bao lâu mà bọn nghịch Khôi, nghịch Nhã, đã đem quân Hồi Lương, Bắc Thuận cùng với bọn thủ hạ giữ thành làm phản. Nay Duyệt mất rồi, xin truy đoạt quan chức của Duyệt, còn vợ con thì giao Hình Bộ tra xét. Lại sai Hình bộ gửi các địa phương cho ý kiến. Triều đình y án.
     - Án Lê Chất:
     Án Lê Văn Duyệt phát ra năm trước thì năm sau có quan Lại bộ tả thị lang là Lê Bá Tú truy tham những tội bất thần của Lê Chất, có 6 tội và 10 tội tiếm loạn. Triều đình nghị án trị tội.
     8. Giặc Tiêm La.
     Tháng 9 năm ấy, bọn Lê Đức Lộc, Nguyễn Công Tiến đem binh ở Nghệ An chia làm hai đạo đi đường Quy Hợp và đường Lạc Phàm qua Trấn Ninh sang cứu A Nỗ. Đi đến đâu vẽ những sông núi hình thế hiểm trở rồi gửi về Kinh. A Nỗ mất nước không lấy lại được, phải theo quân An Nam về Nghệ An, đợi thu xếp quân sĩ để về đánh báo thù. Đến năm Mậu Tí (1828), A Nỗ nói rằng quân Lào tụ hợp được đủ rồi, xin cho quan quân đưa về nước. Vua Thánh Tổ sai Phan Văn Thúy làm kinh lược đại thần, Nguyễn Văn Xuân làm phó, Nguyễn Khoa Hào làm tham tán, đem 3.000 quân và 24 con voi, đưa A Nỗ về Trấn Ninh.
     Đến Trấn Ninh, A Nỗ xin đem quân Lào về Vạn Tượng (Vientiane). Phan Văn Thúy cho hai đội quân Thần Sách đi hộ tống. Về đến Vạn Tượng, A Nỗ đem quân đi đánh quân Tiêm, quân sĩ chết hại rất nhiều, rồi lại sai người sang Nghệ An xin viện binh. Vua Thánh Tổ thấy A Nỗ hay sinh sự đánh nhau không cho quân sang cứu, chỉ giữ những chổ biên giới. A Nỗ không có quân cứu viện, bị quân Tiêm đến đánh, phải bỏ thành chạy sang Trấn Ninh. Được ít lâu, Chiêu Nội là thủ lĩnh Trấn Ninh bắt A Nỗ đem nộp cho Tiêm La.
     Quân Tiêm La phá được Vạn Tượng lại xâm phạm nước Nam, ở mạn Quảng Trị. Vua Thánh Tổ sai thống chế Phạm Văn Điển, kinh lý mọi việc ở Cam Lộ, sai Lê Đăng Doanh làm tham tán quân vụ, cùng với quân các đạo ở Lào đi tiễu trừ. Phạm Văn Điển thư sang trách nước Tiêm La sinh sự, chia quân làm ba đạo tiến đánh. Tướng Tiêm La viết thư trả lời khiêm nhường rồi rút quân về. Từ đó nước Tiêm bề ngoài vẫn thông sứ đi lại để giữ sự hòa hiếu, nhưng ngấm ngầm cứ tìm cách quấy nhiễu nước Nam. Ở phía tây nam, người Tiêm vẫn dung túng những người phản nghịch nước Chân Lạp, mà ở phía tây bắc thì vẫn cứ hà hiếp Vạn Tượng và các nước nhỏ khác. Vua Thánh Tổ không muốn gây việc binh đao, cứ dùng lời nói ngọt mà trang trải mọi việc.
     Đến cuối năm Quý Tị (1833) nhân có ngụy Khôi khởi loạn ở Gia Định và cho người sang cầu cứu, vua Tiêm La sai quân thủy bộ chia làm 5 đạo sang đánh Việt Nam. Đạo thứ nhất thủy quân đem hơn 100 chiếc thuyền vào đánh lấy Hà Tiên; đạo thứ nhì bộ quân sang đánh Nam Vang (Phnon-penh), rồi tiến lên đánh lấy Châu Đốc và An Giang; đạo thứ ba đánh lấy mặt Cam Lộ; đạo thứ tư đánh Cam Cát, Cam Môn, đạo thứ năm đánh Trấn Ninh. Chủ đích của Tiêm La là đánh Chân Lạp và Nam Kỳ. Vua Thánh Tổ được tin báo cấp, liền xuống chiếu sai quan quân phòng ngự các nơi. Phía tây nam thì sai quân thứ ở Gia Định, chia quân cho Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân đi tiến tiễu ở mặt An Giang. Phía tây bắc thì sai Lê Văn Thụy giữ mặt Cam Lộ, thuộc Quảng Trị, Phạm Văn Điển giữ mặt Nghệ An. Lại sai Nguyễn Văn Xuân làm kinh lược đại sứ đi tiễu trừ quân Tiêm và quân Lào ở Trấn Ninh.
     Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân đại phá quân Tiêm La ở sông Cổ Cắng. Quân Tiêm La ở Chân Lạp cũng bị người bản xứ đánh phá. Chỗ nào quân nghịch cũng thua to chết hại rất nhiều; chỉ trong một tháng mà quan quân lấy lại Hà Tiên và Châu Đốc, đuổi quân Tiêm ra khỏi bờ cõi, rồi tiến lên đánh lấy thành Nam Vang và đưa vua Chân Lạp là Nặc Ông Chân về nước. Trương Minh Giảng và Nguyễn Xuân từ Nam Vang tiến lên đánh quân Tiêm, liền phá mấy trận, chém tướng bắt binh lấy được súng ống khí giới không biết ngần nào mà kể. Tướng Tiêm La là Phi Nhã Chất Tri đem bại binh chạy về nước, quan quân đuổi đánh lấy thành Phú Túc (Pursat) rồi cho người Chân Lạp ở lại giữ các nơi: chỗ nào hiểm yếu thì làm đồn đắp lũy, để phòng ngự. Những đạo quân Tiêm và quân Lào sang đánh ở mặt Quảng Trị, Nghệ An và Trấn Ninh, đều bị tướng quân là Nguyễn Văn Xuân, Phạm Văn Điển và Lê Văn Thụy đánh đuổi, chỗ nào quan quân cũng đánh thắng, giữ nguyên bờ cõi. Quân Tiêm sang đánh từ tháng giêng năm Giáp Ngọ (1834), đến tháng 5 năm ấy, thì bình xong mọi nơi. Vua Thánh Tổ mừng rỡ, ban thưởng cho các tướng sĩ và bố cáo cho mọi nơi biết.
     9. Việc Ai Lao.
     Nước Nam ta về đời vua Thánh Tổ thì to rộng hơn cả, là vì quân Tiêm La cứ hay sang quấy nhiễu cho nên các xứ ở Lào đều xin về nội thuộc nước ta. Năm Đinh Hợi (1827), người Nam chưởng (Luan Prabang) thông với Tiêm La, rồi cứ đem quân xuống quấy nhiễu đất Trấn Ninh. Tù trưởng là Chiêu Nội xin đem đất Trấn Ninh về nội thuộc Việt Nam. Vua Thánh Tổ phong cho Chiêu Nội làm Trấn Ninh phòng ngự sứ cai quản cả 7 huyện, lại phong cho những thổ mục làm thổ tri huyện và thổ huyện thừa. Chiêu Nội dâng sổ dân đinh và điền thổ, cả thảy được 3.000 suất đinh và 28 sở ruộng. Đất Tam Động và Lạc Phàn (trước thuộcvề Vạn Tượng) cũng xin nội thuộc. Triều đình chia những đất ấy ra làm hai phủ là Trấn Tĩnh phủ và Lạc biên phủ. Năm ấy lại có xứ Xa hổ (?), Sầm Tộ (Sam teu), Mường soạn (?), Mang Lan (Mường Lam), Trình Cố (Xiêng-khô), Sầm nứa (Sam- neua), Mương Duy (?) và ở Ngọc Ma có Cám cát (Kham-keut), Cam Môn và Cam Linh (?) đều xin về nội thuộc. Vua Thánh Tổ chia những đất ấy ra làm ba phủ là Trấn Biên, Trấn Định và Trấn Man.
     Ở miền Cam Lộ thuộc Quảng Trị lại có những mường Mang vang (?), Ná bi (?), Thượng kế (?), Tả bang (?), Xương thịnh (?), Tầm bồn (?), Ba lan (?), Mang bổng (?), Lang thời (?), xin về nội thuộc, chia ra làm 9 châu, cho chiếu lệ triều cống. Đại khái là đất Sầm nứa, đất Trấn Ninh, đất Cam môn và đất Savannakhet bây giờ, thủa ấy thuộc về Việt Nam ta cả.
     10. Việc Chân Lạp.
     Ở nước Chân Lạp thì từ khi quan quân phá được giặc Tiêm rồi, Tướng quân là Trương Minh Giảng và tham tán là Lê Đại Cương lập đồn An Nam ở gần Nam vang để bảo hộ Chân Lạp. Cuối năm Giáp Ngọ (1834), vua nước Chân Lạp là Nặc Ông Chân mất, không có con trai, quyền cai trị trong nước về cả mấy người phiên liêu là bọn Trà Long và La Kiên. Những người này đều là người Chân Lạp mà lại nhận quan chức Việt Nam. Đến năm Ất Mùi (1835), Trương Minh Giảng xin lập người con gái của Nặc Ông Chân tên là Angmey lên làm quận chúa, gọi là Ngọc Vân công chúa, rồi đổi nước Chân Lạp ra làm Trấn tây thành, chia ra làm 32 phủ và 2 huyện. Đặt một tướng quân, một tham tán đại thần, một đề đốc, một hiệp tán, và 4 chánh phó lĩnh binh, để coi mọi việc quân dân.
     Năm Canh Tí (1840), nhà vua sai Lê Văn Đức làm khâm sai đại thần, Doãn Uẩn làm phó và cùng với Trương Minh Giảng để kinh lý mọi việc ở Trấn Tây Thành, khám xét việc buôn bán, đo ruộng đất, định thuế đinh, thuế thuyền bè buôn bán dưới sông. Vì quan lại Việt Nam sang làm điều trái lẽ, nhũng nhiễu dân sự, lại bắt Ngọc Vân công chúa đem về để ở Gia Định, bắt bọn Trà Long và Lê Kiên đày ra Bắc Kỳ, dân Chân Lạp ai cũng oán giận, chỗ nào cũng có giặc giã nổi lên đánh phá. Lại có em Nặc Ông Chân là Nặc Ông Đôn khởi nghĩa, có người Tiêm La giúp đỡ, quan quân đánh mãi không được. Về sau khi vua Thánh Tổ mất, quan quân phải bỏ thành Trấn Tây rút về An Giang.
     11. Việc giao thiệp với những nước ngoại dương.
     Việc giao thiệp của nước Nam ta với các nước ngoại dương mà ngăn trở là bởi có hai lẽ: một là vì sự cấm giảng đạo thiên chúa; hai là vì người nước mình lúc bấy giờ không hiểu thời thế, cứ tự đắc mình là văn minh hơn người, không chịu học tập như người ta mà theo đường tiến bộ.
     Nước ta từ thế kỷ XI đến nhà Hậu Lê đã có người Âu ra vào buôn bán, hoặc ở Phố Hiến (Hưng Yên), hoặc ở cửa Hội An (Faifo), đều không có việc gì ngăn trở cả. Chỉ có sự giảng đạo Thiên chúa ở trong nước là hay bị sự ngăn cấm. Ngày trước chúa Trịnh và chúa Nguyễn đã có dụ nghiêm cấm. Đến đời Nguyễn Tây Sơn thì trong nước rối loạn lo việc chiến tranh nên không cấm đạo. Về sau, khi vua Thế Tổ nhất thống cả Nam Bắc, ngài nhớ ơn bên đạo có công giúp rập trong lúc gian truân, vẫn để các giáo sĩ được phép đi giảng đạo. Mãi đến đời vua Thánh Tổ thì việc nước đã yên, nhà vua lưu ý về sự giáo hóa, lấy Nho đạo làm chính đạo và cho các tôn giáo khác làm tà đạo, bắt dân gian phải bỏ tà theo chính. Sự cấm đạo lại khởi phát.
     12. Sự Cấm Đạo.
     Từ khi vua Thánh Tổ lên ngôi, ngài đã có ý không cho người ngoại quốc vào giảng đạo. Đến năm Ất Dậu (1825), khi chiếc tàu Thétis vào cửa Đà Nẵng, có giáo sĩ tên là Rogerot ở lại đi giảng đạo các nơi, vua Thánh Tổ nhân dịp ấy mới có dụ cấm đạo, và truyền cho các quan phải khám xét các tàu bè của ngoại quốc ra vào cửa bể. Trong dụ nói rằng: "Đạo phương Tây là tà đạo, làm mê hoặc lòng người và hủy hoại phong tục nên phải nghiêm cấm để khiến người ta phải theo chính đạo". Nhà vua một mặt thì cấm đạo, một mặt thì ban những huấn điều ra để khuyên dân giữ lấy đạo chính. Nhưng nhà vua dùng uy quyền để giết hại bao nhiêu, thì dân sự lại khổ sở bấy nhiêu, chứ lòng tin của con người không sao ngăn cấm được. Vả lại đạo Thiên chúa cũng là một đạo tôn nghiêm, dạy người ta lấy lòng nhân ái, việc gì mà làm khổ dân sự như thế? Các giáo sĩ bấy giờ cứ một niềm liều sống chết đi truyền giáo cho được, có người phải đào hầm mà ở dưới đất hàng mấy tháng để dạy đạo. Những người có chí bền chặt như vậy, thì hình phạt cũng vô ích mà thôi. Năm Mậu Tuất (1838), vua Thánh Tổ thấy cấm thế nào cũng không được, ngài bèn sai sứ sang nước Pháp để điều đình với chính phủ Pháp về việc ấy. Song khi sứ thần Việt Nam sang đến nơi, thì hội Ngoại Quốc Truyền Đạo xin Pháp Hoàng là vua Louis Philippe đừng tiếp. Sứ thần ta phải trở về không; khi về đến Huế thì vua Thánh Tổ đã mất rồi. Về sau việc cấm đạo cứ dai dẳng mãi đến khi nước Pháp sang bảo hộ mới thôi.
     13. Vua Thánh Tổ mất.
     Vua Thánh Tổ mất năm Canh Tí (1840), thọ 50 tuổi và trị vì được 21 năm, miếu hiệu là Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế.
     Thời vua Thánh Tổ, pháp luật, chế độ, điều gì cũng sửa sang lại, làm thành một nước có kỷ cương. Chỉ vì ngài nghiêm khắc quá, cứ một mực theo cổ, chứ không tùy thời mà biến hóa phong tục; lại không biết khoan dung cho sự sùng tín, đem giết hại những người theo đạo, và lại tuyệt giao với ngoại quốc thành ra nước Việt Nam không phát triển.
     Dẫu thế nào thì ngài cũng là một ông vua thông minh, quả cảm, hết lòng lo việc nước, tưởng về bản triều nhà Nguyễn chưa có ông Vua nào làm được nhiều công việc hơn ngài vậy.
VUA THIỆU TRỊ


HIẾN TỔ (1841-1847)
NIÊN HIỆU: THIỆU TRỊ

     Tháng giêng năm Tân Sửu (1841) Hoàng Thái Tử húy là Miên Tông lên ngôi ở điện Thái Hòa đặt niên hiệu là Thiệu Trị.
     Tính vua Hiến Tổ thuần hòa, không hay bày ra nhiều việc và cũng không được quả cảm như Thánh Tổ. Trong đời Ngài làm vua, học hiệu, chế độ, thuế má, điều gì cũng theo như triều vua Thánh Tổ. Bầy tôi lúc bấy giờ có Trương Đăng Quế, Lê Văn Đức, Doãn Uẩn, Võ Văn Giải, Nguyễn Tri Phương, Lâm Duy Tiếp trong ngoài ra sức giúp rập. Nhưng mà đất Nam Kỳ có giặc giã, dân Chân Lạp nổi loạn, quân Tiêm La sang đánh phá, nhà vua phải dùng binh đánh dẹp mãi mới xong.
     1. Việc Chân Lạp.
     Cuối đời đức Thánh Tổ, đất Nam Kỳ và đất Chân Lạp đã có giặc giã, các ông Trương Minh Giảng, Nguyễn Tiến Lâm, Lê Văn Đức, Nguyễn Công Trứ phải đem quân đi tiễu trừ, đánh được chỗ này thì chỗ kia nổi lên. Sau ở Nam Kỳ lại có Lâm Sâm cùng với bọn thầy chùa làm loạn ở Trà Vinh; ở Chân Lạp thì những người bản xứ cùng với người Tiêm La đánh phá, quan quân chống không nổi. Triều đình lấy việc ấy làm lo phiền. Năm Thiệu Trị nguyên niên (1841), ông Tạ Quang Cự quan Triều đình tâu xin bỏ đất Chân Lạp, rút quân về giữ An Giang. Vua nghe lời ấy, xuống chiếu truyền cho tướng quân là Trương Minh Giảng rút quân về. Trương Minh Giảng về đến An Giang thì mất. Việc kinh lý đất Chân Lạp là quyền của ông, nay vì có biến loạn, quan quân phải bỏ thành Trấn Tây, ông nghĩ xấu hổ và buồn bực đến nỗi thành bệnh mà chết.
     2. Việc Tiêm La.
     Khi quân của Nguyễn Tiến Lâm và Nguyễn Công Trứ dẹp xong giặc Lâm Sâm ở Nam Kỳ, thì quân Tiêm La lại đem binh thuyền sang cùng với quân giặc trong nước đánh phá. Vua bèn sai Lê Văn Đức làm tổng thống đem binh tướng đi tiễu trừ. Sai Nguyễn Tri Phương và Nguyễn Công Nhân giữ mặt Vĩnh Tế, Phạm Văn Điển và Nguyễn Văn Nhân giữ mặt Hậu Giang. Ba mặt cùng tiến binh lên đánh, quân Tiêm. Quân giặc thua to phải rút về giữ Trấn Tây. Quan quân đuổi được quân Tiêm La ra ngoài bờ cõi, đặt quân giữ các nơi hiểm yếu để đợi ngày tiến tiễu. Khi Việt Nam rút quân về, quân Tiêm La tàn bạo, người Chân Lạp không phục, có người sang cầu cứu ở Nam Kỳ, vua sai Võ Văn Giải sang kinh lý việc Chân Lạp.
     Tháng sáu năm Ất Tị (1845), là năm Thiệu Trị thứ năm, Võ Văn Giải vào đến Gia Định, cùng với Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn, Tôn Thất Nghị, tiến binh sang đánh Chân Lạp, phá được đồn Dây Sắt, lấy lại thành Nam Vang, người Chân Lạp về hàng kể hơn 23.000 người. Nguyễn Tri Phương và Doãn Uẩn đem binh đuổi đánh quân Tiêm La và quân Chân Lạp, vây Nặc Ông Đôn và tướng Tiêm La là Chất Tri ở Ô- Đông (Oudon).
     Tháng chín năm ấy, Chất Tri sai người sang xin hòa. Qua tháng mười Nguyễn Tri Phương, Doãn Uẩn và Chất Tri ký hòa ước ở nhà hội quán, hai nước đều giải binh. Nguyễn Tri Phương rút quân về đóng ở Trấn Tây, đợi quân Tiêm thi hành những điều ước đã định.
     Tháng chạp năm Bính Ngọ (1846), Nặc Ông Đôn dâng biểu tạ tội và sai sứ đem đồ phẩm vật sang triều cống.
     Tháng hai năm Đinh Mùi (1847) là năm Thiệu Trị thứ bảy, Triều đình phong cho Nặc Ông Đôn làm Cao Miên Quốc Vương và phong cho Mỹ Lâm Quận Chúa làm Cao Miên Quận Chúa. Lại xuống chiếu truyền cho quân thứ ở Trấn Tây rút về An Giang.
     Từ đó nước Chân Lạp lại có vua, việc ở phía nam mới được yên.
     3. Việc giao thiệp với nước Pháp.
     Từ khi vua Hiến Tổ lên trị vì thì sự cấm đạo hơi nguôi đi được một ít, nhưng Triều đình vẫn ghét đạo, mà những giáo sĩ ngoại quốc vẫn còn giam ở Huế. Có người đưa tin ấy cho trung tá nước Pháp tên là Favin Lévêque tàu Héroine. Ông Favin Lévêque đem tàu vào Đà Nẵng xin cho năm người giáo sĩ được tha. Qua năm Ất Tị (1845) là năm Thiệu Trị thứ năm có một giám mục tên Lefèbvre phải án xử tử. Bấy giờ có người quản tàu Mỹ Lợi Kiên ở Đà Nẵng xin mãi không được, mới báo tin cho hải quân thiếu tướng nước Pháp là Cécile biết. Thiếu tướng sai quân đem chiếc tàu Alemène vào Đà Nẵng lĩnh giám mục ra. Năm Đinh Mùi (1847) quan nước Pháp được tin ở Huế không còn giáo sĩ phải giam nữa, mới sai đại tá De Lapierre và trung tá Rigault de Genouilly đem hai chiếc chiến thuyền vào Đà Nẵng, xin bỏ những chỉ dụ cấm đạo và để cho người trong nước được tự do theo đạo mới. Lúc hai bên còn đang thương nghị về việc ấy, thì quan nước Pháp thấy thuyền của ta ra đóng ở gần tàu của Pháp và ở trên bờ lại thấy có quân ta sắp sửa đồn lũy, mới nghi có sự phản trắc, bèn bắn đắm cả những thuyền ấy, rồi nhổ neo kéo buồm ra bể.
     Vua Hiến Tổ thấy sự trạng như thế, tức giận vô cùng, lại có dụ ra cấm người ngoại quốc vào giảng đạo, và trị tội những người trong nước đi theo đạo.
     Việc tàu nước Pháp vào bắn ở Đà nẵng xong được mấy tháng, thì vua Hiến Tổ phải bệnh mất. Bấy giờ là tháng chín năm Đinh Mùi (1847), năm Thiệu Trị thứ bảy. Ngài làm vua được bảy năm, thọ 37 tuổi, miếu hiệu là Hiến tổ Chương Hoàng Đế.

VUA TỰ ĐỨC


DỰC TÔNG (1847-1883)
NIÊN HIỆU: TỰ ĐỨC
     1. Đức độ vua Dực Tông.
     Vua Hiến Tổ mất, truyền ngôi lại cho hoàng tử thứ hai, húy là Hồng Nhậm. Bấy giờ Hoàng tử mới có 19 tuổi, nhưng học hành đã thông thái. Đến tháng 10 năm Đinh Mùi (1847), ngài lên ngôi Hoàng đế ở điện Thái Hòa, đặt niên hiệu là Tự Đức, lấy năm sau là năm Mậu Thân làm Tự Đức Nguyên niên.
     Vua Dực Tông trị vì khi Pháp sang bảo hộ Việt Nam nên đất nước có nhiểu chuyển biến phức tạp. Vua tướng mạo như một nho sỹ, tính tình hiền lành, sống rất có hiếu thuận với mẹ là bà Từ Dũ.
     Ngài vốn là người hiếu học, đêm nào ngài cũng xem sách đến khuya. Có ba tập Ngự Chế Thi Văn của ngài đã in thành bản. Ngài lại làm sách chữ nôm để dạy dân cho dễ hiểu, như là sách Thập Điều, Tự Học Diễn Ca, Luận Ngữ Diễn Ca...
     2. Đình thần.
     Đình thần là các quan ở trong Triều giúp vua lo việc nước. Đình thần lúc bấy giờ dù thế giới bên ngoài có nhiều cạnh tranh thay đổi nhưng các quan Triều đình thì vẫn giữ nét cổ hũ. Một số quan đi các nước về muốn cách tân nhưng không vượt qua được lề thói cũ. Bấy giờ cũng đã có người hiểu rõ thời thế, chịu đi du học và muốn thay đổi chính trị. Như năm Bính Dần (1866) là năm Tự Đức thứ 19, có mấy người ở Nghệ An là Nguyễn Đức Hậu, Nguyễn Trường Tộ, Nguyễn Điều đi du học phương Tây. Sau Nguyễn Trường Tộ về làm mấy bài điều trần, xin nhà vua cải cách mọi việc. Vua giao những tờ điều trần ấy cho các quan duyệt nghị. Đình thần không ai chịu nghe.
     Năm Mậu Thìn (1868) là năm Tự Đức thứ 21, có người ở Ninh Bình tên là Đinh Văn Điền dâng tờ điều trần nói nên đặt doanh điền, khai mỏ vàng, làm tàu hỏa, cho người các nước phương tây vào buôn bán, luyện tập sĩ tốt để phòng khi chiến tranh, thêm lương thực cho quan quân, bớt sưu dịch cho dân sự, thưởng cho những người có công, nuôi nấng những người bị thương, tàn tật...Đại để là những điều ích quốc lợi dân cả, thế mà đình thần cho là không hợp với thời thế, bỏ không dùng.
     Các quan đi sứ các nơi về kiến nghị Vua nên học theo các nước mà tổ chức chính trị, ngoại giao, hành chính, quân đội...Vua hỏi đến Đình thần, mọi người đều bác đi, cái gì cũng cho là không hợp thời.
     3. Việc Ngoại giao.
     Vua Dực Tông cương quyết không cho người ngoại quốc vào buôn bán. Năm Canh Tuất (1850) là năm Tự Đức thứ 3, có tàu Mỹ Lợi Liên vào Đà Nẵng xin thông thương, Vua không tiếp.
     Từ năm Ất Mão (1855) đến năm Đinh Sửu (1877) tàu Anh Cát Lợi ra vào mấy lần ở cửa Đà Nẵng, cửa Thị Nại (Bình Định) và Quảng Yên để xin buôn bán, người Tây Ban Nha và Pháp xin thông thương cũng  không được. Về sau đất Gia Định mất rồi, việc ngoại giao khó khăn, nhà Vua mới đặt Bình Chuẩn Ti để coi việc buôn bán, Thương Bạc Viện để coi việc giao thiệp với người nước ngoài, nhưng cũng không có người giỏi việc buôn bán và ngoại giao.
     4. Việc cấm Đạo.
     Năm Mậu Thân (1848) là năm Tự Đức nguyên niên, vua Dực Tông mới lên ngôi đã có dụ cấm đạo. Trong dụ nói rằng những người ngoại quốc vào giảng đạo thì phải tội chết, những người đạo trưởng ở trong nước không chịu bỏ đạo thì khắc chữ vào mặt rồi cho đi đày, những ngu dân thì các quan phải ngăn cấm, không cho theo đạo nhưng đừng giết hại. Năm Tân Hợi (1851) là năm Tự Đức thứ 4, lại có dụ cấm đạo khắc nghiệt hơn, một số giáo sĩ ngoại quốc bị giết. Đã không cho người ngoại quốc vào buôn bán, lại làm tội những người đi giảng đạo, vì thế mà nước Pháp và Tây Ban Nha mới nhân cớ ấy vào đánh nước ta.
     5. Việc Thuế má.
     Thuế má trong nước giữ như đời vua Thánh Tổ và Hiến Tổ, chỉ từ khi các nước Pháp và Tây Ban Nha vào đánh mấy tỉnh Nam Kỳ, phải bồi tiền binh phí mất 4 triệu nguyên, Triều đình mới tìm cách lấy tiền, cho người khách tên là Hầu Lợi Trịnh thu thuế bán thuốc phiện từ Quảng Bình ra Bắc Kỳ, mỗi năm thu được 302.200 quan tiền thuế nha phiến. Nhà vua định lệ cho quyên từ 1.000 quan trở lên thì được hàm cửu phẩm, 10.000 quan thì được hàm lục phẩm, nghĩa là bán quan để lấy tiền.
     6. Việc Văn học.
     Vua Dực Tông là một ông vua hay chữ nhất đời nhà Nguyễn, nên ngài rất trọng sự nho học. Ngài chăm về việc khoa giáp, sửa sang việc thi cử đặt ra Nhã Sĩ Khoa và Cát Sĩ Khoa, để chọn lấy người văn học ra làm quan. Ngài lại đặt Tập Hiền Viện và Khai Kinh Diên để ngài ngự cùng các quan bàn sách vở, làm thơ phú hoặc nói chuyện chính trị. Lại sai soạn bộ Khâm Định Việt Sử, từ đời thượng cổ cho đến hết đời nhà Hậu Lê.
     7. Việc Binh chế.
     Đời vua Dực Tông lắm giặc giã, nhà Vua cần đến việc võ, nên năm Tân Dậu (1861) là năm Tự Đức thứ 14 truyền cho các tỉnh chọn lấy những người khỏe mạnh để làm lính võ sinh. Đến năm Ất Sửu (1865) là Tự Đức thứ 18 lại mở ra khoa thi võ tiến sĩ. Tuy bấy giờ có lính võ sinh, có quan võ tiến sĩ, nhưng về quân đội của các nước vũ khí hiện đại hơn, quân lính Triều đình chỉ có vũ khí lạc hậu. Quân lính như thế, binh khí như thế mà quan thì lại cho lính về phòng, mỗi đội chỉ để chừng 20 người tại ngũ, vậy nên khi có chiến tranh thì khó mà chống giữ được.
CHẾ ĐỘ VÀ TÌNH THẾ VIỆT NAM CUỐI ĐỜI TỰ ĐỨC
     1. Cách tổ chức chính trị- xã hội.
     Nước Việt Nam tuy là một nước quân chủ chuyên chế, nhưng theo tinh thần và cách tổ chức xã hội thì có nhiều chỗ rất dân chủ.
     Vua: Theo lý thuyết của Nho Giáo, gọi là Đế hay là Vương, được giữ chủ quyền cả nước. Chủ quyền ấy là thần khí, là vật thiêng liêng Trời cho. Lệ nhà vua, mỗi tháng phải mấy lần thiết đại triều, các quan tại kinh phải đến đủ mặt và theo phẩm trật mà tâu bày mọi việc. Khi có việc quan trọng, Vua giao cho đình thần bàn xét, các quan đều được trình bày ý kiến của mình. Việc gì đã quyết định, dâng lên để Vua chuẩn y rồi mới thi hành. Vua có quyền cao nhất, các quan Giám Sát Ngự Sử có chức năng can ngăn Vua khi thấy điều trái. Triều đình ngay chính và sáng suốt thì việc nước được yên trị; nếu có những người gian nịnh mờ tối, thì việc nước hư hỏng. 
     Quan tư: mệnh lệnh của triều đình đã phát ra thì quan tư ở các quận huyện phải theo mà thi hành. Các quan coi các quận huyện có nhiệm vụ dạy dỗ dân, không nhũng nhiễu dân.
     Quyền Tự Trị của dân làng: Quan của triều đình bổ ra chỉ đến phủ huyện, từ tổng trở xuống thuộc quyền tự trị của dân. Dân tự chọn người của mình để coi mọi việc trong hạt. Làng hay xã là phần tử cốt yết của dân. Phong tục, lệ luật của làng nào hay làng ấy, triều đình không can thiệp, cho nên tục ngữ có câu: "Phép vua thua lệ làng".
     2. Bốn Hạng Dân.
     Người trong nước chia ra làm bốn hạng là: sĩ, nông, công, thương.
     Công: Công là hạng người làm thợ hoặc làm một công nghệ gì để lấy lợi, lập thành phường, như thợ mộc, thợ nề, thợ rèn, thợ đúc, thợ gốm...
     Thương: Thương là hạng người làm nghề buôn bán.
     Nông: Nông là hạng người chuyên nghề làm ruộng.
     Sĩ: Sĩ là hạng người đi học, thi đỗ ra làm quan, hoặc đi dạy học, làm thầy thuốc, thầy địa lý, thầy bói, thầy tướng số... là những nghề phong lưu nhàn hạ.
     3. Sự sinh hoạt của người trong nước.
     Tình thế trong nước như đã nói trên, công nghệ không có, buôn bán không phát triển, trừ việc cày cấy làm ruộng ra thì người nghèo đói không có nghề nghiệp gì mà làm ăn, cho nên thủa ấy vẫn có người chết đói, vì rằng giá gạo thì rẻ, nhưng kiếm được đồng tiền rất khó.
NƯỚC PHÁP LẤY ĐẤT NAM KỲ
     1. Quân Pháp đánh Đà Nẵng.
     Thời vua Dực Tông, vua quan giữ thói cũ, không mở cửa cho người nước ngoài vào buôn bán, khai hóa dân trí, lại sùng tín giết hại người trong nước, làm tội những người đi giảng đạo. Do những sai lầm đó mà nước Pháp mới dùng binh lực để báo thù cho những giáo sĩ bị hại.
     Từ năm Tân Hợi (1851)- năm Tự Đức thứ 4 về sau, khi có dụ cấm đạo lần thứ hai, ở Bắc Kỳ có giáo sĩ Bonard, Charbonnier, Matheron và giám mục Tây Ban Nha tên là Diaz bị giết. Chính phủ Pháp bèn sai ông Leheur de Ville-sur-Arc, đem chiếc chiến thuyền "Catinat" vào cửa Đà Nẵng đem thư lên trách Triều đình Việt Nam về việc giết đạo. Sau thấy quan ta không trả lời, quân Pháp bắn phá các đồn lũy ở Đà Nẵng rồi bỏ đi. Tháng 8 năm Bính Thìn (1856)- năm Tự Đức thứ 9, sứ thần nước Pháp là ông Montigny ở Tiêm La sang điều đình. Tàu của ông Montigny đi vào cửa Đà Nẵng, cho người đưa thư lên xin cho người Pháp được tự do vào thông thương, đặt lãnh sự ở Huế, mở cửa hàng buôn bán ở Đà Nẵng, cho giáo sĩ được tự do đi giảng đạo. Triều đình Huế không chịu.
     Tháng 7 năm Mậu Ngọ (1858)- năm Tự Đức thứ 11, Trung tướng Pháp là Rigault de Genouilly đem tàu Pháp và tàu Tây Ban Nha gồm 14 chiếc, chở hơn 3.000 quân của hai nước vào Đà Nẵng, bắn phá các đồn lũy, hạ thành An Hải và thành Tôn Hải. Triều đình được tin sai ông Đào Trí cùng với quan tổng đốc Nam Nghĩa là Trần Hoằng chống cự. Ông Đào Trí ra đến nơi thì hai hải thành đã mất. Triều đình lại sai quan hữu quân Lê Đình Lý làm tổng thống đem 2.000 cấm binh vào chống giữ. Ông Lê Đình Lý đánh quân Pháp ở xã Cẩm Lệ bị thương rồi mất.
     Vua Dực Tông lại sai quan Kinh Lược Sứ Nguyễn Tri Phương vào làm tổng thống, ông Chu Phúc Minh làm đề đốc cùng với ông Đào Trí chống giữ quân Pháp và quân Tây Ban Nha. Ông Nguyễn Tri Phương lập đồn Liên Trì, đắp lũy dài từ Hải Châu đến Phúc Ninh, rồi chia quân phòng giữ. Trung tướng Rigault de Genouilly định lấy Đà Nẵng rồi lên đánh Huế, nhưng thấy quan quân phòng giữ chặt, lại có tin hơn 10.000 quân ở Huế sắp kéo vào nên Trung tướng không dám tiến quân. Được mấy tháng, Trung tướng liệu thế đánh Huế chưa được, bèn vào đánh chiếm thành Gia Định.
     2. Quân Pháp vào đánh Gia Định.
     Trước đó, có người bàn với Trung tướng ra đánh lấy Bắc Kỳ, lý do ở Bắc Kỳ có hơn 40 vạn người theo đạo và có đảng theo nhà Lê, có thể giúp quân Pháp thành công. Trung tướng cho đi do thám biết rằng đất Nam Kỳ dễ lấy hơn, lại là đất giàu có, nhiều thóc gạo. Đến tháng giêng năm Kỷ Mùi (1859)- năm Tự Đức thứ 12, Trung tướng giao quyền cho đại tá Toyon giữ các đồn tại Đà Nẵng, còn ông đem binh thuyền vào Nam Kỳ. Quân Pháp vào cửa Cần Giờ, bắn phá các pháo đài hai bên bờ sông Đồng Nai, rồi tiến đánh thành Gia Định.
     Ở Gia Định, bấy giờ tuy có nhiều binh khí, nhưng quân lính không luyện tập, việc quân trễ nải, nên khi quân Pháp vào cửa Cần Giờ, quan hộ đốc là Vũ Duy Ninh vội vàng tư đi các tỉnh lấy binh về cứu viện; nhưng chỉ trong hai ngày thì thành vỡ. Vũ Duy Ninh tự tận. Quân Pháp và Tây Ban Nha vào thành, lấy được 200 khẩu đại bác, 8 vạn rưỡi kilos thuốc súng và 18 vạn phật lăng (francs) cả tiền lẫn bạc, binh khí, thóc gạo rất nhiều.
     Trung tướng Rigault de Genouilly chiếm được thành Gia Định, đốt thóc gạo và san phẳng thành trì, chỉ để một đồn ở phía nam, sai Trung tá Jauréguiberry cùng binh lính ở lại chống giữ. Trung tướng đem quân ra Đà Nẵng đánh đồn Phúc Ninh. Quân ông Nguyễn Tri Phương thua phải lui về giữ đồn Nại Hiên và đồn Liên Trì. Trận ấy trung tá Dupré Déroulède của Pháp bị tử trận.
     Khi quân Pháp và quân Tây Ban Nha sang đánh Đà Nẵng và Gia Định, thì quân nước Anh và quân Pháp đánh nước Tàu ở mạn Hoàng Hải. Quân Pháp bên Tàu cần tiếp viện nên truyền cho thiếu tướng Page rút quân ở Đà Nẵng về giữ Gia Định, còn bao nhiêu binh thuyền theo trung tướng Charner đi đánh Tàu. Tháng ba năm Canh Thân (1860) quân Pháp đốt dinh trại ở Trà Sơn rồi rút quân. Vào đến Gia Định, thiếu tướng Page để đại tá d Ariès ở lại giữ Gia Định, ông đem quân lên phía bắc hội với binh thuyền của nước Anh đánh nước Tàu.
     Triều đình Huế thấy quân Pháp bỏ Đà Nẵng, bèn sai Nguyễn Tri Phương, Phạm Thế Hiển vào Nam Kỳ, để cùng với ông Tôn Thất Hợp sung Gia Định quân thứ. Đến tháng 7 năm Canh Thân (1860) ông Nguyễn Tri Phương khởi hành. Lúc gần đi, ông có tâu bày việc giữ nước và nói rằng việc đánh nhau với nước Pháp là rất khó. Quân Pháp và Tây ban Nha ở Sài Gòn chỉ có độ 1.000 người, quân ta đông nhưng lại không luyện tập, vũ khí thì thô sơ...Tuy vậy, ông Nguyễn Tri Phương cùng với quan tham tán đại thần Phạm Thế Hiển cũng vào xếp đặt ở Gia Định rất có quy cũ, đắp đồn Kỳ Hòa (đồn Chí Hóa) chống nhau với quân của đại tá d Ariès.
     Tháng 9 năm Canh Thân (1860), Triều đình nhà Thanh bên Tàu ký hòa ước với nước Anh và nước Pháp ngừng chiến tranh. Chính phủ Pháp sai trung tướng Charner đem binh thuyền về Việt Nam mưu việc lấy Nam Kỳ.
     Tháng giêng năm Tân Dậu (1861) trung tướng Charner đem 70 chiếc tàu và 3.500 quân về Gia Định. Được 20 ngày, Trung tướng truyền lệnh đánh đồn Kỳ Hòa. Hai bên đánh nhau ác liệt trong hai ngày, quân Pháp chết hơn 300 người nhưng vũ khí Pháp hiện đại nên quân ta địch không nổi, phải bỏ đồn chạy về Biên Hòa. Trận ấy thiếu tướng Vassoigne, đại tá Tây Ban Nha Palanca và mấy người nữa bị thương, bên ta ông Nguyễn Tri Phương bị thương, em ngài là Nguyễn Duy tử trận, quan tham tán Phạm Thế Hiển về đến Biên Hòa thì mất, quân sĩ chết hại rất nhiều.
     Bấy giờ bại quân của Nguyễn Tri Phương rút về đóng ở Biên Hòa, còn đang rối loạn, quân Pháp quay về phía tây đánh tỉnh Định Tường. Cuối tháng 2 năm Tân Dậu (1861), Trung tướng sai Trung tá Bourdais đem tàu đi đường sông, tiến đánh các đồn, sai Thiếu tướng Page đi đường bể, theo cửa sông Mê-kong vào, hai mặt cùng tiến đánh thành Mỹ Tho. Quan hộ đốc là Nguyễn Công Nhàn phải bỏ thành mà chạy
     3. Mất tỉnh Định Tường.
     Phá được đồn Kỳ Hòa rồi, Trung tướng Charner cho quân đuổi đánh, quan quân vỡ tan. Hạ thành Mỹ Tho xong, Trung tướng đặt đồn lũy ở các nơi hiểm yếu, và có ý hoãn việc binh để sửa sang việc cai trị trong địa hạt đã lấy được chứ không đánh các tỉnh khác. Triều đình được tin đồn Kỳ Hòa, thành Mỹ Tho thất thủ, sai quan thượng thư Hộ bộ là Nguyễn Bá Nghi làm Khâm sai đại thần vào kinh lý Nam kỳ. Nguyễn Bá Nghi biết thế chống không nổi, dâng sớ xin giảng hòa, nhưng trong triều có Trương Đăng Quế không chịu. Đến tháng 10 năm Tân Dậu (1861), chính phủ Pháp sai Thiếu tướng Bonard sang thay cho Trung tướng Charner về nghỉ.
     4. Mất tỉnh Biên Hòa và tỉnh Vĩnh Long.
     Thiếu tướng Bonard thấy quan quân ta cứ chống giữ mãi, bèn quyết ý đánh lấy tỉnh Biên Hòa và tỉnh Vĩnh Long. Tháng 11 năm ấy, quân Pháp chia làm 3 đạo, tiến đánh thành Biên Hòa, đánh lấy đồn Bà Rịa. Qua tháng 3 năm sau là năm Nhâm Tuất (1862), Thiếu tướng Bonard đem 11 chiếc tàu và hơn 1.000 quân đi đánh Vĩnh Long. Tỉnh thần ở đấy chống giữ được 2 ngày thì bị phá. Tổng đốc Trương Văn Uyển phải đem quân lui về phía tây sông Mê-kông.
     5. Hòa ứớc năm Nhâm Tuất (1862).
     Bấy giờ ngoài Bắc Kỳ có tên Phụng, tên Trường, đánh phá ở mặt Quảng Yên và Hải Dương, lại có Nguyễn Văn Thịnh, tục gọi là Cai Tổng Vàng, quấy nhiễu ở Bắc Ninh, mà trong Nam Kỳ thì lại mất thêm hai tỉnh nữa. Triều đình lo sợ, sai Phan Thanh Giản và Lâm Duy Tiếp vào Gia Định giảng hòa. Đến tháng 4 thì sứ thần nước ta theo chiếc tàu Forbin vào Sài Gòn. Ngày 9 tháng 5 Thiếu tướng Bonard cùng sứ thần Phan Thanh Giản và ông Lâm Duy Tiếp ký hòa ước.
     6. Sứ Việt Nam sang Tây.
     Vua Dực Tông thế bất đắc dĩ phải nhường đất ba tỉnh Nam Kỳ cho Pháp, nhưng trong bụng vẫn muốn cố sức để chuộc lại, vì đất Gia Định là đất khai nghiệp của nhà Nguyễn và là quê ngoại của ngài, nên hòa ước ký rồi mà ngài vẫn sai quan thương nghị với quan nước Pháp về việc ấy. Chủ ý người Pháp không những lấy ba tỉnh mà còn định mở rộng thêm.
     Vua Dực Tông thấy bàn không xong, bèn sai quan hiệp biện đại học sĩ Phan Thanh Giản, quan tả tham tri lại bộ Phạm Phú Thứ và quan án sát sứ tỉnh Quảng Nam là Ngụy Khắc Đản đem phẩm vật sang sứ nước Pháp và I Pha Nho. Còn việc giao thiệp ở trong Nam Kỳ thì giao lại cho quan tổng đốc tỉnh Vĩnh Long là Trương Văn Uyển.
     Tháng 6, các sứ thần xuống tàu "Echo" vào Gia Định, rồi sang tàu "Européen" cùng với quan nước Pháp và quan nước I Pha Nho sang Tây. Đến tháng 8 thì tàu "Européen" về tới nước Pháp, sứ thần nước ta lên Paris, xin vào triều yết Pháp Hoàng Nã Phá Luân đệ tam nhưng Pháp Hoàng đang đi nghỉ mát, sứ thần ta phải ở lại chờ đến hơn một tháng mới được yết kiến. Ông Phan Thanh Giản tâu bày mọi lẽ về việc xin chuộc ba tỉnh Nam Kỳ. Pháp Hoàng ban rằng việc đó để đình nghị xem thế nào rồi sau sẽ trả lời cho Triều đình Huế. Mấy hôm sau, bọn ông Phan Thanh Giản đi sang I Pha Nho, rồi đến cuối năm thì các sứ thần xuống tàu "Japon" trở về.
     7. Việc bảo hộ Cao Miên.
     Trong khi sứ nước ta sang Tây lo việc chuộc lại mấy tỉnh ở Nam Kỳ, thì ở bên này Thiếu tướng De La Grandière một mặt cứ đánh dẹp mọi nơi, xếp đặt cách cai trị, định thuế lệ và mở trường dạy chữ Pháp và chữ quốc ngữ, một mặt sai quan đi kinh doanh việc bảo hộ nước Cao Miên (Chân Lạp).
Từ năm Kỷ Mùi (1859), vua Cao Miên là An Dương (tức là Nặc Ông Tôn) mất rồi, người con trưởng tên là Norodom (Ông Lân) lên nối ngôi. Đến năm Tân Dậu (1861), thì người em Norodom là Si-Vattha nổi lên tranh ngôi của anh. Norodom phải chạy sang Tiêm La. Sang năm Nhâm Tuất (1862) vua Tiêm La sai quân đem Norodom về nước, rồi đặt quan ở Ô- đông để bảo hộ Cao Miên.
     8. Nước Pháp lấy 3 tỉnh phía tây đất Nam Kỳ.
     Chính phủ phân vân, chưa quyết hẳn lấy hay trả đất Nam Kỳ, Pháp Hoàng thấy đường sá xa xôi cũng ngại, bèn sai Trung tá hải quân Aubaret sang điều đình với Triều đình ở Huế về việc cho chuộc ba tỉnh Nam Kỳ.
     Vua Dực Tông lại sai quan Lại Bộ thượng thư là ông Phan Thanh Giản ra sung chức toàn quyền cùng với Trần Tiễn Thành và Phan Huy Vịnh để thương nghị với sứ thần nước Pháp. Sứ hai nước cứ bàn đi bàn lại mãi không xong, mà ở bên Pháp thì có nhiều người không muốn trả lại đất Nam Kỳ. Cuối năm Giáp Tí (1864) quan thượng thư Hải quân bộ là hầu tước De Chasseloup Laubat dâng sớ tâu với Pháp Hoàng nhất định xin không cho nước Nam chuộc ba tỉnh. Pháp Hoàng nghe lời ấy bèn xuống chỉ truyền cứ chiếu tờ hòa ước năm Nhâm Tuất (1862) mà thi hành.
     Năm Ất Sửu (1865), quan thượng thư De Chasseloup Laubat muốn biết rõ tình thế bên Việt Nam, bèn gọi thiếu tướng De La Grandière về hội nghị và sai Thiếu tướng hải quân Roze sang thay. Thiếu tướng De la Grandière về Pháp cả đi lẫn về mất 7 tháng, lại trở sang kinh lý việc Nam Kỳ.
     Lúc bấy giờ ở ba tỉnh của Pháp đã thành nếp rồi, Thiếu tướng De la Grandière ở Pháp sang đã quyết ý lấy nốt ba tỉnh phía tây. Lại nhân từ khi trước nước Pháp sang lấy Nam Kỳ, người bản xứ thỉnh thoảng vẫn nổi lên đánh phá, quân Pháp dẹp mãi không yên. Ở Cao Miên lại có tên sư Pu kầm Bô xưng là cháu Nặc Ông Chân cũng nổi lên đánh vua Norodom. Súy phủ ở Sài gòn đổ cho quan Việt Nam xui giục và giúp đỡ những người làm loạn, bèn sửa soạn việc lấy tỉnh Vĩnh Long, tỉnh An Giang và tỉnh Hà Tiên.
     Triều đình Huế mong chuộc lại đất ba tỉnh, nhưng biết ý đồ súy phủ ở Sài gòn sẽ lấy tiếp cả ba tỉnh phía tây, nên năm Bính Dần(1866), sai ông Phan Thanh Giản làm kinh lược sứ tìm kế chống giữ. Bên Pháp, năm Đinh Mão (1867), Trung tướng hải quân Rigault de Genouilly lên làm Thượng thư hải quân bộ ra sức giúp Thiếu tướng De la Grandière cho xong việc. Bởi vậy súy phủ ở Sài gòn chỉ đợi dịp để khởi sự.
     Tháng 6 năm Đinh Mão (1867) là năm Tự Đức thứ 20, Thiếu tướng De la Grandière hội hơn 1.000 quân ở Mỹ Tho, rồi định ngày kéo sang lấy Vĩnh Long, An Giang và Hà Tiên. Ông Phan Thanh Giản biết thế không chống nổi, bảo các quan nộp thành trì tránh thiệt hại, rồi ông uống thuốc độc mà tự tận, dặn lại con cái phải cày ruộng mà ăn, chứ không được nhận quan chức gì ở Nam Kỳ. Bấy giờ ông đã già ngoài 74 tuổi, làm quan thật thanh liêm, nhưng chẳng may gặp phải khi nước có biến, biết thế mình không làm gì được, đem tấm lòng son sắt mà báo đền ơn nước cho hết bổn phận người làm tôi.
     Từ đó đất Nam kỳ toàn cảnh thành ra đất thuộc địa của Pháp, thuế má, luật lệ, điều gì cũng do súy phủ ở Sài gòn quyết định cả.
     9. Việc rối loạn trong nước.
     Vua Dực Tông vốn là ông vua có lòng chăm chỉ về việc trị dân, ngay từ năm Canh Tuất (1850), là năm Tự Đức thứ 3, ngài đã sai ông Nguyễn Tri Phương làm Kinh lược đại sứ 6 tỉnh Nam  Kỳ; ông Phan Thanh Giản làm Kinh lược sứ Bình Định, Phú Yên, Khánh Hòa và Bình Thuận; Ông Nguyễn Đăng Giai làm Kinh lược sứ Hà Tĩnh, Nghệ An và Thanh Hóa. Các ông ấy đi khám xét công việc các quan lại và sự làm ăn của dân gian, có điều gì hay dở phải sớ tâu về cho vua biết.
     Tuy vậy, không có đời nào lắm giặc giã bằng đời ngài làm vua. Chỉ được vài ba năm đầu thì còn có hơi yên trị, còn từ năm Tân Hợi (1851) là năm Tự Đức thứ 4 trở đi, thì càng ngày càng nhiều giặc mà đất Bắc Kỳ có nhiều giặc hơn cả.
     Bấy giờ bên Tàu có giặc Thái Bình nổi lên đánh nhà Thanh, đến khi giặc ấy tan thì dư đảng chạy tràn sang nước ta cướp phá ở mạn thượng du. Nào giặc khách, nào giặc ta, quan quân cứ phải đi đánh dẹp luôn. ở trong nước thì thỉnh thoảng lại có tai biến, như nước lụt, đê vỡ...Ở Hưng Yên, đê Văn Giang vỡ 18 năm liền, cả huyện Văn Giang thành bãi cát bỏ hoang, dân gian đói khổ, nghề nghiệp không có, cho nên người đi làm giặc càng ngày càng nhiều.
     10. Giặc Tam đường.
     Năm Tân Hợi (1851) là năm Tự Đức thứ 4, có giặc khách là bọn Quảng nghĩa Đường, Lục thắng Đường, Đức thắng đường...tục gọi là giặc Tam-đường, quấy nhiễu ở mặt Thái Nguyên, Vua sai ông Nguyễn Đăng Giai ra kinh lược Bắc kỳ. Ông ấy dùng cách khôn khéo dụ được chúng nó về hàng. Bởi vậy trong hạt lại được yên một độ. Nhưng đến cuối năm giáp dần (1854) là năm Tự Đức thứ 7, Nguyễn Đăng Giai mất, đất Bắc kỳ lại có loạn.
     11. Giặc châu chấu.
     Năm Tự Đức thứ 7 (1854), ở tỉnh Sơn Tây có một bọn người đem Lê duy Cự là dòng dõi nhà Lê ra lập lên làm minh chủ để khởi sự đánh nhà Nguyễn. Lúc bấy giờ có Cao Bá Quát, người làng Phú Thụy, huyện Gia Lâm, tỉnh Bắc Ninh, thi đỗ cử nhân, ra làm quan, được bổ chức giáo thụ phủ Quốc Oai (Sơn Tây). Cao Bá Quát có tiếng là người văn học giỏi ở Bắc kỳ, mà cứ bị quan trên đè nén, cho nên bức chí, bỏ quan về đi dạy học, rồi theo bọn ấy xưng là quốc sư để dấy loạn ở vùng Sơn Tây và Hà Nội. Tháng chạp năm ấy quan phó Lĩnh binh tỉnh Sơn Tây là Lê Thuận đi đánh bắt được Cao Bá Quát đem về chém tại làng.
     Nhân vì mùa tháng năm ấy ở vùng tỉnh Bắc Ninh và Sơn Tây có nhiều châu chấu ra phá hại mất cả mùa màng, rồi đến cuối năm lại có giặc ấy, cho nên người thời bấy giờ gọi là giặc châu chấu. Cao Bá Quát chết rồi, Lê duy Cự còn quấy rối đến mấy năm sau mới dẹp yên được. Từ đó trở đi, không năm nào là năm không có giặc, nhưng kiệt hiệt hơn cả là có giặc tên Phụng và giặc Khách ở mạn Thượng du.
     12. Giặc tên Phụng.
     Năm Tân Dậu (1861), quân nước Pháp và nước I- pha-nho sang đánh Quảng Nam, có mấy người ở Bắc kỳ theo vào làm lính mộ. Trong ấy có tên Tạ Văn Phụng, trước đã theo giáo sĩ ra ngoại quốc đi học đạo, sau lại theo Trung tướng Charner về đánh Quảng Nam.
     Đến tháng chạp thì tên Phụng ra Bắc kỳ, mạo xưng là Lê Duy Minh dòng dõi nhà Lê, rồi tự xưng là minh chủ, cùng với một người đạo trưởng tên là Trường làm mưu chủ, và tên Ước, tên Độ dấy binh ở Quảng Yên. Đảng tên Phụng đem quân giặc Khách ở ngoài bể vào đánh lấy phủ Hải Ninh, rồi lại thông với giặc Khách và giặc ta ở các tỉnh, để làm loạn ở Bắc Kỳ.
     Tháng ba năm Nhâm Tuất (1862), ở Bắc Ninh có tên cai tổng Nguyễn Văn Thịnh (tục gọi là cai tổng Vàng) xưng làm nguyên súy, lập tên Uẩn mạo xưng là con cháu nhà Lê, lên làm minh chủ, rồi nhập đảng với tên Phụng, đem binh đi đánh phủ Lạng Giang, huyện Yên Dũng, và vây thành Bắc Ninh. Bấy giờ quan bố chính ở Hà Nội là Nguyễn Khắc Thuật, quan bố chính tỉnh Sơn Tây là Lê Dụ và quan phó lĩnh binh tỉnh Hưng Yên là Vũ Tảo đem quân ba tỉnh về đánh giải vây cho tỉnh Bắc. Vũ Tảo đánh nhau với quân giặc hơn 10 trận mới phá được quân giặc.
     Phía đông thì tên Phụng vây thành Hải Dương, tỉnh thần dâng sớ cáo cấp. Triều đình bèn sai quan Thượng thư bộ Hình là Trương Quốc Dụng ra làm tổng thống Hải an quân vụ, cùng với Phan Tam Tỉnh, Đặng Hạnh, Lê Xuân, đem quân Kinh và quân Thanh, Nghệ ra tiến tiễu. Lại sai Đào Trí làm tham tán đại thần, Nguyễn Bá Nghi làm Sơn-Hưng-Tuyên tổng đốc, để cùng với Trương Quốc Dụng đánh giặc ở Bắc kỳ.
     Lúc ấy, tỉnh Thái Nguyên thì có giặc Nông và giặc Khách đánh phá, tỉnh Tuyên Quang thì có bọn tên Uẩn, tên Nông Hùng Thạc quấy nhiễu, tỉnh Cao Bằng thì bị tên Giặc Khách Lý hợp Thắng vây đánh, tỉnh Bắc Ninh thì có cai tổng Vàng cướp phá, các quan to la rối cả lên. Vua Dực Tông sai Nguyễn Tri Phương ra làm Tây bắc tổng thống quân vụ đại thần, cùng với Phan Đình Tuyển và Tôn Thất Tuệ ra đánh mặt Bắc Ninh, Thái Nguyên và Tuyên Quang.
     Tháng 3 năm Quí Hợi (1863) Vũ Tảo đánh lấy lại thành Tuyên Quang và bắt được tên Uẩn đóng củi giải về trị tội. Qua tháng 4, Nguyễn Tri Phương dẹp xong giặc ở Bắc Ninh, rồi đem binh lấy lại thành Thái Nguyên, bắt được tên Thanh, tên Đắc, tên Vân và lại phá được sào huyệt của giặc ở núi Ma Hiên, thuộc châu Bạch Thông.
     Còn ở mặt Hải Dương và Quảng Yên, thì tuy Trương Quốc Dụng và Đào Trí đã giải được vây cho thành Hải Dương, nhưng thế quân giặc ở mặt bể còn mạnh lắm. Vua Dực Tông lại sai Nguyễn Tri Phương làm Tổng thống hải an quân vụ, Trương Quốc Dụng làm hiệp thống đem quân ra đánh mặt ấy. Lúc bấy giờ bọn tên Phụng có sai người vào cầu viện quan thiếu tướng Bonard ở trong Nam kỳ, hẹn hễ lấy được Bắc kỳ thì xin để nước Pháp bảo hộ. Nhưng vì trong Nam kỳ còn lắm việc, mà sự giảng hòa với Triều đình Huế sắp xong, nên Thiếu tướng không nhận. Đảng tên Phụng vẫn chiếm giữ đất Quảng Yên và những đảo ở ngoài bể, để làm sào huyệt,
     Cuối năm Quí Hợi (1863) là năm Tự Đức thứ 16, quân giặc họp hơn 500 chiếc thuyền ở đảo Cát Bà và ở Đồ Sơn, có ý muốn đem quân vào đánh đất Kinh kỳ, nhưng chẳng may phải bão, thuyền đắm mất nhiều. Quan đề đốc là Lê Quang Tiến và quan bộ phủ Bùi Huy Phan được tin ấy liền đem quân ra đánh, bị quân giặc tập hậu, quan quân bỏ chạy. Lê Quang Tiến và Bùi Huy Phan phải nhảy xuống biển tự tận.
     Đến tháng 6 năm Giáp Tí (1864) là năm Tự Đức thứ 17, quan hiệp thống Trương Quốc Dụng, quan tán lý Văn Đức Khuê, quan tán tương Trần Huy Sách và quan chưởng vệ Hồ Thiện đánh nhau với giặc ở đất Quảng Yên thua to, bị giặc giết cả. Tháng 4 năm Ất Sửu(1865), quân giặc đem 300 chiếc thuyền phân ra làm 3 đạo vào cướp ở mạn Hải Dương. Nguyễn Tri Phương sai Nguyễn Văn Vỹ đem quân ra đón đánh, giặc bị thiệt hại. Từ đó quan đề đốc Mai Thiện quan tán lý Đặng Trần Chuyên, quan đốc binh Ông Ích Khiêm đánh hơn 10 trận, quân giặc lui về giữ mặt Hải Ninh.
     Tháng 7 năm ấy, Nguyễn Tri Phương sai Đặng Trần Chuyên, Ông Ích Khiêm đem binh ra Quảng Yên, hẹn với quan nhà Thanh ở Khâm Châu đánh lấy lại thành Hải Ninh. Quân giặc thua to, đem hơn 70 chiếc thuyền chạy ra bể. Quan quân đem binh thuyền đuổi đánh, tên Phụng, tên Ước chạy vào mạn Quảng Bình, Quảng Trị, còn đồ đảng, đứa thì bị bắt, đứa thì chạy trốn. Sau tên Phụng, tên Ước cũng bị bắt đem về trị tội ở Huế.
     Giặc Phụng khởi từ cuối năm Tân Dậu(1861) đến cuối năm Ất Sửu(1865) mới dẹp xong, kể vừa 4 năm, nhà nước tổn hại rất nhiều. Khi giặc Phụng ở Quảng Yên dẹp gần xong, thì ở mạn Cao Bằng có giặc Khách đánh lấy tỉnh thành. Quan kinh lược Võ Trọng Bình và quan tuần phủ Phạm Chi Hương đem binh lên Lạng Sơn chia quân đi đánh các nơi, từ tháng 9 năm Ất Sửu (1865) đến tháng 3 năm Bính Dần(1866), tướng giặc là Trương Cận Bang mới xin về hàng và thu phục lại thành Cao Bằng. Nguyễn Tri Phương và Võ Trọng Bình về Kinh coi việc triều chính.
     13. Sự phản nghịch ở Kinh thành.
     Việc ngoài Bắc mới tạm yên thì Kinh đô lại có việc náo động lòng người. Nguyên vua Dực Tông là con thứ mà được nối ngôi, là vì người anh ngài là Hồng Bảo phóng đãng, không chịu học hành nên không được lập. Ông ấy lấy điều đó làm tức giận, bèn mưu đồ với nước ngoài để tranh ngôi vua. Chẳng may sự lộ ra, ông ấy phải bỏ ngục bị ép uống thuốc độc mà chết. Con ông thì được tha mà phải đổi tên là Đinh Đạo
     Đến năm Bính Dần(1866) là năm Tự Đức thứ 19, nhà vua đang xây Vạn niên cơ tức là Khiêm Lăng bây giờ, quân sĩ phải làm lụng khổ sở, có nhiều người oán giận. Bấy giờ ở Kinh có Đoàn Trưng cùng vơi em là Đoàn Hữu Ái, Đoàn Tư Trực, và bọn Trương Trọng Hòa, Phạm Lương kết làm "Sơn đông thi tửu hộ" để mưu việc lập Đinh Đạo lên làm Vua. Bọn tên Trưng mới chiêu dụ những lính làm làm ở Vạn Niên cơ và cùng với qua hữu quân Tôn Thất Cúc làm nội ứng, định ngày khởi sự. Đến đêm mùng 8 tháng 8, Đoàn Trưng đem quân vào cửa tả dịch, chực xông vào điện giết vua Dực Tông. May nhờ có quan chưởng vệ là Hồ Oai đóng được cửa điện lại, hô quân bắt được tên Trưng, tên Trực và cả bọn đồng đảng. Đinh Đạo phải tội giảo, Tôn Thất Cúc thì tự vẫn chết, còn các quan có trách nhiệm đều phải chiếu tội nặng nhẹ, hoặc phải cách.
     Lúc ấy ngoài thì có giặc cướp phá, trong thì có nghịch thần làm loạn. Ở mặt Quảng Nghĩa lại có giặc mọi Đá Vách cứ hay xuống quấy nhiễu dân, may nhờ có quan tiểu phủ Nguyễn Tấn ra sức đánh dẹp mới yên được. Việc giao thiệp với nước Pháp càng ngày càng khó. Ở Bắc kỳ thì có giặc Khách một ngày một mạnh, đến nỗi quan quân đánh không được, phải nhờ quân Tàu sang dẹp hộ. Triều đình cũng bối rối không biết tính ra thế nào cho khỏi được sự biến loạn.
     14. Giặc Khách ở Bắc kỳ.
     Bên Tàu lúc bấy giờ cũng loạn: ngoài thì đánh nhau với nước Anh và nước Pháp. Triều đình phải bỏ Kinh đô mà chạy; trong thì có giặc Thái Bình nổi lên đánh phá, tí nữa ngôi vua nhà Thanh cũng đổ nát.
     Nguyên từ năm Đạo Quang thứ 29, là năm Kỷ Dậu (1849)- năm Tự-đức thứ 2, ở Quảng Tây có tên Hồng Tú Toàn cùng với bọn Dương Tú Thanh, Tiêu Triều Quí, Lý Tú Thành...nổi lên xưng là Thái Bình Thiên quốc, rồi chiếm cứ đất Kim Lăng và các tỉnh phía nam sông Trường Giang. Nhờ có Tăng Quốc Phiên, Tả Tôn Đường, Lý Hồng Chương đánh dẹp lại có thế lực ngoại quốc giúp, đến năm Đồng Trị thứ hai là năm Quí Hợi(1863)- năm Tự Đức thứ 16, quan nhà Thanh mới bắt được các tướng Thái Bình, Hồng Tú Toàn phải uống thuốc độc tự tử, triều đình nhà Thanh lại thu phục được các tỉnh phía nam nước Tàu.
     Lúc ấy có dư đảng của Hồng Tú Toàn là bọn Ngô Côn chạy sang nước ta, trước nói xin hàng, sau đem quân đi cướp phá các tỉnh, quan quân đánh mãi không được. Năm Mậu Thìn(1868)- Tự-đức thứ 21, Ngô Côn chiếm giữ tỉnh thành Cao Bằng. Triều đình sai quan tổng đốc Phạm Chi Hương viết thư sang cho quan nhà Thanh để xin quân Tàu sang tiểu trừ. Nhà Thanh sai phó tướng Tạ Kế Quí đem quân sang cùng với quan tiểu phủ Ông Ích Khiêm và quan đề đốc Nguyễn Viết Thành, đánh phá quân của Ngô Côn ở Thất Khê. Tháng 7 năm ấy, quân ta đánh thua ở Lạng Sơn, quan tham tán Nguyễn Lệ, phó đề đốc Nguyễn Viết Thành tử trận, thống đốc Phạm Chi Hương bị bắt. Triều đình sai Võ Trọng Bình ra làm Hà Ninh tổng đốc kiêm chức Tuyên- Thái- Lạng quân thứ khâm sai đại thần, hội với quan đề đốc tỉnh Quảng Tây là Phùng Tử Tài đánh giặc. Tháng 5 năm Kỷ Tị(1869) mới khôi phục lại tỉnh thành Cao Bằng. Cuối năm Canh Ngọ(1870), Ngô Côn đem quân vây đánh tỉnh thành Bắc Ninh, quan tiểu phủ Ông Ích Khiêm đánh một trận bắn chết Ngô Côn và phá tan quân giặc. Ngô Côn tuy chết, song còn có những đồ đảng là Hoàng Sùng Anh hiệu cờ vàng, Lưu Vĩnh Phúc hiệu cờ đen, Bàn văn Nhị, Lương văn Lợi hiệu cờ trắng vẫn cứ quấy nhiễu ở mạn Tuyên Quang, Thái Nguyên, quan quân phải hết sức chống giữ. Triều đình sai quan trung quân Đoàn Thọ ra làm tổng thống quân vụ Bắc kỳ.
     Đoàn Thọ kéo quân lên đóng ở tỉnh thành Lạng Sơn, bọn giặc Khách là Tô Tứ nổi lên, nửa đêm vào lấy thành, bắt ông ấy giết đi, còn Võ Trọng Bình thì vượt thành chạy thoát được. Tin vào đến Huế, Triều đình vội vàng sai Hoàng Kế Viêm ra làm Lạng- Bình- Ninh- Thái thống đốc quân vụ đại thần, cùng với quan tán tương Tôn Thất Thuyết dẹp giặc ở Bắc kỳ. Qua tháng tư năm sau (1871), Vua sai quan Hình bộ thượng thư là Lê Tuấn làm chức Khâm sai thị sự cùng với ông Hoàng Kế Viêm lo việc đánh dẹp.
     Tháng 11 năm Tân Mùi(1871), ở Quảng Yên lại có tên Hoàng Tề nổi lên, thông với giặc Tô Tứ và giặc Tàu ô ở ngoài biển đem binh thuyền cướp phá các nơi. Hoàng Kế Viêm giữ mạn Sơn Tây, Lê Tuấn ra cùng với tỉnh thần Hải Dương đem quân đi đánh giặc Tề. Được ít lâu, quân thứ tỉnh Hải Dương bắn chết tên Tề ở huyện Thanh Lâm, dư đảng giặc tan rã. Ở mạn thượng du thì đảng cờ đen Lưu Vĩnh Phúc và đảng cờ vàng Hoàng Sùng Anh quấy nhiễu ở đất Tuyên Quang. Sau hai đảng ấy lại thù khích đánh phá nhau, đảng cờ đen về hàng với quan ta, nhà vua bèn dùng Lưu Vĩnh Phúc cho ở đất Lao Cay chống giữ với đảng cờ vàng, đóng ở mạn Hà Giang.
     Đất Bắc kỳ cứ giặc giã mãi, quan quân đánh dẹp mãi không yên. Đến tháng 7 năm Nhâm Thân (1872), Triều đình sai Nguyễn Tri Phương làm Tuyên sát đổng sức đại thần ra thay mặt vua xem  xét việc đánh giặc ở Bắc kỳ. Nhưng lúc bấy giờ việc giặc ở trong nước chưa xong, thì sự giao thiệp với nước Pháp đã sinh ra lắm nỗi khó khăn, khiến việc nước lại rối thêm.
QUÂN PHÁP LẤY BẮC KỲ LẦN THỨ NHẤT
        1. Người Pháp tìm đường sang Tàu
     Khi Pháp lấy đất Nam kỳ, Súy phủ ở Sài Gòn sửa sang mọi việc, xem xét địa lý ở Trung kỳ và Bắc kỳ để mở mang giao thông và tìm đường thông sang nước Tàu, bởi vậy tháng 5 năm Bính Dần(1866), Thiếu tướng De la Grandière sai Trung tá Doudart de Lagrée cùng với đại úy Francis Garnier theo sông Mékong đi tìm đường sang Tàu. Đến tháng 3 năm Mậu Thìn(1868), ông Doudart de Lagrée mới sang đến đất Vân Nam và ốm chết. Ông Francis Garnier đem xác ông ấy đi qua nước Tàu, rồi xuống Tàu thủy về Sài Gòn.
     Năm Canh Ngọ(1870)- năm Tự Đức thứ 23, nước Pháp đánh nhau với nước Phổ; quân Pháp thua, Pháp hoàng là Nã phá luân III bị bắt. Dân nước Pháp bỏ đế quốc lập Dân chủ cộng hòa. Tuy bên Pháp có chiến tranh, nhưng ở Viễn đông quân Pháp vẫn giữ vững đất Nam kỳ. Vả Triều đình ở Huế còn bận dẹp giặc Khách ở Bắc kỳ nên không sinh sự gì. 
     2. Đồ Phổ Nghĩa (Jean Dupuis).
     Một người Pháp tên là Jean Dupuis(Đồ-phổ-Nghĩa) tìm cách buôn bán gạo, muối theo đường thủy sông Hồng lên Vân Nam. Theo luật Triều đình không được phép nhưng Jean Dupuis tìm cách luồn lách, dựa vào thế quân Tàu để thực hiện việc buôn bán.
     Triều đình Huế thấy việc lôi thôi, sợ để lâu thành ra nhiễu sự, sai ông Lê Tuấn, ông Nguyễn Văn Tường và ông Nguyễn Tăng Doãn vào Sài Gòn, để thương nghị về việc ba tỉnh phía tây Nam kỳ và nhân thể nhờ Súy phủ phân xử việc Đồ-phổ-Nghĩa. 
     3. Đại úy Francis Garnier (Ngạc Nhi) ra Hà Nội.
     Thống đốc Nam kỳ là Thiếu tướng Dupré viết thư cho Thượng thư thuộc địa ở Paris nói rằng: "Đất Bắc kỳ là đất tiếp giáp với những tỉnh tây nam nước Tàu, ta nên chiếm giữ lấy thì sự cai trị của ta ở Viễn đông mới chắc chắn". Nước Pháp đang đánh nhau với nước Phổ, không muốn gây chuyện khác, bèn điện sang cho thiếu tướng rằng: "Không được sinh sự ở Bắc kỳ". Đến khi Millot về Sài-gòn kể công việc ở Bắc-kỳ, thiếu-tướng lại điện về Paris nói rằng: "Việc Đồ-phổ-Nghĩa ở Bắc kỳ đã thành công rồi. Cần phải lấy xứ Bắc kỳ và giữ lấy con đường thông sang Tàu, không cần viện binh. Chắc chắn thành công".
     Lúc ấy Triều đình ở Huế sai ông Lê Tuấn vào xin thiếu tướng ra điều đình việc Đồ-phổ-Nghĩa ở Bắc-kỳ. Thiếu tướng Dupré thấy thời cơ đến liền gọi đại úy Francis Garnier ở Thượng Hải về, sai ra Hà Nội phân xử việc Đồ-phổ-Nghĩa. Đến tháng 10 năm Quí Dậu (1873), các quan đến Hà-nội.
     Bấy giờ ai cũng tưởng là đại úy Francis Garnier ra chuyến này thì mọi việc sẽ xong nên đi đến đâu quan ta cũng tiếp đãi rất trọng hậu. Nhưng xem những thư từ của đại úy thì thấy có chủ ý khác. Ra đến Hải Dương, đại úy vào ở Kẻ Sặt, rồi viết thư sai người đem cho Đồ-phổ- Nghĩa, báo tin cho ông ấy biết chủ đích của mình. Đồ-phổ-Nghĩa tiếp được thư, liền đem tàu Man- hao đi đón đại úy. Lên đến Hà Nội, đại úy vào thành ra mắt ông Nguyễn Tri Phương và đòi đem quân đóng ở trong thành. Quân ta nói mãi, Đại úy mới thuận ra đóng ở Trường Thi. 
     4. Hạ thành Hà Nội năm Quí Dậu (1873)
     Quan ta thấy đại úy không nói gì đến việc Đồ-phổ-Nghĩa, mà lại nói những việc dẹp giặc và mở sự buôn bán, thì đều lấy làm phân vân. Sau lại thấy tàu và quân ở Sài- gòn tiến ra, quan ta lại càng lo lắm. Được mấy hôm, đại úy không bàn hỏi gì đến quan ta, tự tiện làm tờ tuyên bố sự mở sông Hồng Hà cho người Pháp, I-pha-nho và Tàu được ra vào buôn bán. Quan ta không chịu và cũng lo phòng bị. Mà đại úy cũng đã biết trước rằng thế nào quan ta cũng không chịu, cho nên đã định kế đánh thành Hà Nội.
     Đầu tháng 10, một mặt đại úy viết thư cho ông Nguyễn Tri Phương, trách quan ta ngăn trở việc buôn bán của Đồ-phổ-Nghĩa ảnh hưởng đến văn minh và quyền lợi của nước Pháp, nên Súy phủ ở Sài Gòn sai đại úy ra mở sự buôn bán ở Bắc kỳ. Dẫu quan Việt-nam có thuận hay không cũng mặc, đại úy cứ theo lệnh của Súy phủ thi hành. Một mặt đại úy bàn với Đồ-phổ-Nghĩa định ngày đánh thành và bắt ông Nguyễn Tri Phương giải vào Sài Gòn. Sách của Đồ-phổ-Nghĩa chép bấy giờ có những người mạo xưng là đảng nhà Lê, xin theo đại úy vào thành làm nội ứng.
     Sáng ngày rằm tháng 10 năm Quí Dậu (1873), quân Pháp bắn súng vào thành Hà Nội. Ông Nguyễn Tri Phương cùng với con là phò mã Nguyễn Lâm lên thành giữ cửa Đông và cửa Nam. Được non một giờ đồng hồ thì thành vỡ, phò mã Lâm trúng đạn chết, ông Nguyễn Tri Phương bị thương nặng. Quân Pháp vào thành bắt được ông Nguyễn Tri Phương và quan khâm phái Phan Đình Bình đem xuống tàu.
     Ông Nguyễn Tri Phương nghĩ mình là một bậc lão thần thờ vua đã trải ba triều, đánh nam dẹp bắc đã qua mấy phen, nay chẳng may vì việc nước mà bị thương, đến nỗi phải bị bắt, ông quyết chí không chịu buộc thuốc và nhịn ăn mà chết. Ông Nguyễn Tri Phương quê ở Thừa Thiên, do lại điển xuất thân, làm quan từ đời vua Thánh Tổ, trải qua ba triều, mà nhà vẫn thanh bạch, chỉ lo việc nước, không thiết của cải. Nhưng chẳng may phải khi quốc bộ gian nan, ông phải đem thân hiến cho nước, thành ra cả nhà cha con, anh em đều mất vì việc nước, thật là một nhà trung liệt xưa nay ít có vậy. 
     5. Lấy mấy tỉnh ở Trung châu.
     Thành Hà Nội thất thủ rồi, quan ta thì trốn tránh cả, giặc cướp lại nhân dịp nổi lên. Đại úy Francis Garnier lại cho những người theo với mình đi làm quan các nơi để chống với quan triều, rồi sai người đi đánh lấy tỉnh Ninh Bình, Nam Định và Hải Dương. Quan ta ở các tỉnh đều không biết thế nào, hễ thấy người Tây đến là bỏ chạy. Bởi vậy, chỉ có người Pháp tên là Hautefeuille và 7 người lính tây mà hạ được thành Ninh Bình, và chỉ trong 20 ngày mà 4 tỉnh ở Trung châu mất cả. 
     6. Đại-úy Francis Garnier chết.
     Triều đình được tin có biến ở Bắc kỳ, sai các ông Trần Đình Túc, Nguyễn Trọng Hợp, Trương Gia Hội cùng với giám mục Bình (Mgr Bohier) và linh mục Đăng ( Dangelger) ra Hà Nội, để điều đình và sai ông Hoàng Kế Viêm ở Sơn Tây làm tiết chế quân vụ phòng giữ các nơi. Lại sai ông Lê Tuấn làm toàn quyền, ông Nguyễn Văn Tường làm phó, vào thương thuyết với Súy phủ ở Sài Gòn về việc đại úy Francis Garnier đánh Bắc-kỳ. Lúc bấy giờ ông Hoàng Kế Viêm đóng ở Sơn Tây, có đảng cờ đen là bọn Lưu Vĩnh Phúc về giúp. Vua phong cho Lưu Vĩnh Phúc làm đề đốc, để cùng với quan quân chống giữ quân Pháp. Lưu Vĩnh Phúc đem quân về đóng ở phủ Hoài Đức. Khi ông Trần Đình Túc và ông Nguyễn Trọng Hợp đang thương thuyết với đại úy Francis Garnier, thì quân cờ đen về đánh Hà Nội. Đại úy đem quân đi đuổi đánh, lên đến Cầu Giấy thì bị phục quân giết chết. 
     7. Ông Philastre ra Hà Nội.
     Khi thiếu tướng Dupré sai đại úy Francis Garnier ra Bắc kỳ là tự ý mình chứ chính phủ nước Pháp không thuận, bởi vậy khi được tin đại úy khởi sự đánh Hà Nội, thiếu tướng liền sai đại úy, kiêm chức thống soái việc hình luật ở Nam kỳ, là ông Philastre (Hoắc-đạo-sinh) cùng với quan phó sứ nước ta là ông Nguyễn Văn Tường ra điều đình ở Bắc kỳ.
     Đến Cửa Cấm thì ông Philastre và ông Nguyễn Văn Tường mới biết đại úy Francis Garnier đã bị quân cờ đen giết. Sử chép rằng khi được tin ấy, ông Philastre tức giận vỗ bàn bảo ông Nguyễn Văn Tường rằng: "Việc không xong rồi, phải trở về đợi lệnh súy phủ mới được". Ông Nguyễn Văn Tường sợ ông Philastre giận quá mà nhỡ việc, mới ung dung nói: "Việc đánh lấy thành Hà Nội súy phủ bảo không phải là bản ý, mà quân bản quốc ở 4 tỉnh Bắc kỳ cũng không tranh dành gì cả. Vậy hai bên không có làm điều gì trái nhau. Nay đại úy Francis Garnier chết, hoặc là bị giết chết, hoặc là vì dân nổi lên làm loạn, việc ấy ta chưa rõ. Huống chi trả thành lại để định hòa ước cho xong, ấy là lệnh của súy phủ; mà thu lấy thành rồi mới nghị hòa, ấy là mệnh của bản quốc. Còn như việc Hà Nội giết đại úy Francis Garnier thì cũng như đại úy Francis Garnier giết ông Nguyễn Tri Phương, việc đó xuất ư ý ngoại, chứ có phải lỗi chúng ta đâu. Bây giờ chúng ta ra đây, mắt chưa trông thấy việc gì cả, mới nghe thấy tin báo mà đã bỏ về, thế chẳng hóa ra mình đi uổng mất công hay sao? chi bằng ta cho người đưa thư lên Hà Nội bảo đem tàu xuống đón, chúng ta sẽ lên tới nơi, hoặc là cứ theo mệnh lệnh mà làm, hoặc là xét rõ duyên do tại sao mà đại úy Francis Garnier chết, rồi sẽ báo tin, thế chẳng ổn việc lắm hay sao?" Ông Philastre nghe lời ấy, bèn sai người đưa thư lên cho Hà Nội biết. Ngay lúc ấy có tàu "Decrès" đóng ở Đồ Sơn, ông Philastre muốn sang tàu ấy để cho chiếc tàu mình đi là "D Estrées" trở về báo tin cho Sài Gòn biết. Nguyễn Văn Tường ngăn đi rằng: "Tàu của mình đã vào cửa rồi lại trở ra, nhỡ sĩ dân biết, lại bắt chước Hà Nội mà làm bậy, thì làm thế nào mà ngăn cấm được; sợ có việc tổn hại, thì lấy lẽ gì mà bẩm với quí súy. Vậy nay xin sai chiếc tàu "Decrès" ra bể, đuổi đánh những giặc Tàu ô, còn cứ đem tàu "D Estrées" vào đến Hải Phòng, rồi ta lên Hải Dương, đem trả tỉnh thành lại cho bản triều, để tỏ cái lòng tin cho sĩ dân biết, sau ta lên Hà Nội, trả nốt cả mấy thành kia, và tra hỏi việc đại úy Francis Garnier chết ra thế nào sẽ bẩm cho quí súy biết " .
     Ông Philastre vốn là một người rất công bằng, lại thấy ông Nguyễn Văn Tường nói hợp lẽ, bèn nghe theo và lên Hải Dương truyền trả thành lại cho quan ta, lên Hà Nội làm tờ giao ước trả lại cả 4 thành cho quan ta coi giữ. Còn tàu bè và quân lính của Pháp ở các tỉnh thì thu cả về Hà Nội, rồi định ngày rút quân ra đóng ở Hải Phòng đợi đến ngày ký hòa ước xong thì rút về. Bấy giờ là tháng giêng năm Giáp Tuất (1874), là năm Tự- đức thứ 27.
     Đồ-phổ-Nghĩa thấy ông Philastre phá mất cả những việc của mình đã làm với đại úy Francis Garnier, bèn vào Sài Gòn kêu với súy phủ và đòi tiền phí tổn non một triệu nguyên 
     8. Hòa ước năm Giáp Tuất (1874)
     Mọi việc ở Hà Nội xếp đặt xong rồi, súy phủ ở Sài Gòn sai ông Rheinart (Lê Na) ra thay cho ông Philastre cùng với ông Nguyễn Văn Tường về Nam kỳ, định sự hòa ước cho kịp ngày thiếu tướng Dupré về Pháp.
     Ngày 27 tháng giêng năm Giáp Tuất (1874), là năm Tự Đức thứ 27, Thiếu tướng Dupré và ông Lê Tuấn, ông Nguyễn Văn Tường ký hòa ước gồm 22 khoản, đại lược có những khoản quan trọng. Hòa ước ký xong thì quan chánh sứ Lê Tuấn mất, ông Nguyễn Văn Tường về Huế. Thiếu tướng Dupré giao mọi việc ở Nam kỳ cho Thiếu tướng Krantz quyền lĩnh, rồi về Pháp.
     Tháng 6, Triều đình Huế sai quan hình bộ Thượng thư là Nguyễn Văn Tường và quan lại bộ thị lang là Nguyễn Tăng Doãn vào Sài Gòn cùng với thiếu tướng Krantz định các lệ về buôn bán ở nước Nam. Đến 20 tháng 7, tờ thương ước lập xong.
TÌNH THẾ NƯỚC NAM TỪ NĂM GIÁP TUẤT VỀ SAU
     1. Văn Thân nổi loạn ở Nghệ Tĩnh.
     Ông Philastre và ông Nguyễn Văn Tường thu xếp việc Bắc kỳ vừa xong, thì ở mạn Nghệ Tĩnh có loạn. Bấy giờ dân nước ta chia làm hai phái: bên lương, bên giáo và không ưa nhau. Khi xảy ra việc đại úy Francis Garnier lấy Hà Nội, sĩ phu ở Nghệ Tĩnh thấy giáo dân có nhiều người theo giúp ông ấy, thì tức giận lắm, bèn rủ nhau nổi lên đánh phá.
     Tháng giêng năm Giáp Tuất (1874), là năm Tự Đức thứ 27, đất Nghệ An có hai người tú tài là Trần Tấn và Đặng Như Mai hội tập các văn thân trong hạt, rồi làm một bài hịch gọi là "Bình Tây sát tả", đại lược nói rằng: "Triều đình dẫu hòa với với Tây mặc lòng sĩ phu nước Nam vẫn không chịu, vậy trước nhất xin giết hết giáo dân, rồi sau đánh đuổi người Tây cho hết, để giữ lại cái văn hóa của ta đã hơn 1000 năm nay" Bọn Văn thân cả thảy độ non hơn ba nghìn người, kéo đi đốt phá những làng có đạo.
     Bấy giờ quan tổng đốc Nghệ An là ông Tôn Thất Triệt lại có ý dung túng bọn Văn thân, cho nên họ càng đắc thế càng phá dữ. Triều đình thấy vậy, mới truyền bắt quan quân phải dẹp cho yên. Bọn Văn thân thấy quan quân đuổi đánh, bèn cùng với bọn giặc Trần Quang Hoán, Trương Quan Phủ, Nguyễn Huy Điển đánh lấy thành Hà Tĩnh, rồi ra vây phủ Diễn Châu. Triều đình thấy thế giặc càng ngày càng to, bèn sai ông Nguyễn Văn Tường ra làm khâm sai và ông Lê Bá Thận làm tổng thống, đem quân ra đánh dẹp, từ tháng 2 đến tháng 6 mới xong.
     2. Giặc ở Bắc kỳ.
     Lúc ấy ở mạn Thượng du Bắc kỳ lúc nào cũng có giặc, quan quân đánh mãi không được, phải nhờ quân Tàu sang đánh giúp cũng không xong. Mạn Hải Dương và Quảng Yên thì vẫn có những người mạo xưng là con cháu nhà Lê, cứ quấy rỗi mãi. Khi Francis Garnier ra lấy Hà Nội, những người ấy về xin theo đi đánh quân ta, nhưng vì sau nước Pháp trả lại các tỉnh ở Bắc kỳ, họ lại tản đi. và từ khi nước ta và nước Pháp đã ký hòa ước rồi, quan Pháp có đem binh thuyền đi đánh giúp, cho nên mới diệt được đảng ấy.
     Ở mạn Tuyên Quang, thì có giặc cờ vàng nhũng nhiễu đã lâu, đánh dẹp mãi không được. Đến tháng 8 năm Ất Hợi (1875), là năm Tự Đức thứ 28, tướng cờ vàng là Hoàng Sùng Anh đem quân về đóng ở làng Châu Thượng, thuộc phủ Vĩnh Tường. Bấy giờ quan quân tán dương quân vụ tỉnh Sơn Tây là Tôn Thất Thuyết về đánh một trận. Giặc ấy từ đó tan dần. Năm sau Tôn Thất Thuyết lại giết được tên giặc Trận ở làng Cổ Loa dẹp yên được mạn Sơn Tây, nhưng đến năm Mậu Dần (1878), ở Lạng Sơn lại có tên giặc Khách là Lý Dương Tài nổi lên. Lý Dương Tài trước làm quan hiệp trấn ở Tầm Châu, thuộc tỉnh Quảng Tây, sau bị cách mới nổi lên làm giặc và đem quân tràn sang đánh lấy tỉnh Lạng Sơn. Quan ta đem thư sang cho quan Tàu biết. Quan đề đốc Quảng Tây là Phùng Tử Tài đem quân 26 doanh sang cùng với quân ta hội tiễu. Đến tháng 9 năm Kỷ Mão(1879), quan quân mới bắt được Lý Dương Tài ở núi Nghiêm Hậu thuộc tỉnh Thái Nguyên đem giải sang Tàu.
     Vì đất Bắc kỳ cứ có giặc giã luôn cho nên Triều đình đặt ra chức Tĩnh-biên-sứ để giữ các nơi về đường ngược. Năm Canh Thìn(1880), đặt ra Lạng-giang-đạo và Đoan-hùng-đạo sai hai viên Tĩnh-biên phó-sứ là Trương Quang Đản đóng ở Lạng Giang và Nguyễn Hữu Độ đóng ở Đoan Hùng, lại phong cho Hoàng Kế Viêm là Tĩnh-biên-sứ, kiêm cả hai đạo .
     3. Sự giao thiệp với Tàu.
     Nước ta từ xưa đến nay tuy là độc lập, nhưng vẫn giữ lệ triều cống nước Tàu, nước nhỏ phải tôn kính nước lớn nên khi chiến tranh, dẫu ta có đánh được Tàu đi nữa, thì nhà nào lên làm vua cũng theo cái lệ ấy, đời nào cũng lấy điều đó làm tự nhiên. Bởi vậy hễ vua nào lên ngôi, cũng chiếu lệ sai sứ sang Tàu cầu phong, và cứ ba năm sai sứ sang cống một lần.
     Các vua đời nhà Nguyễn cũng theo lệ ấy, nhưng các đời Vua trước thì Vua phải ra Hà Nội mà tiếp sứ Tàu và thụ phong. Đến đời vua Dực Tông thì sứ Tàu vào tại Huế phong vương cho ngài. Còn những cống phẩm thì cứ theo lệ, mà thường chỉ đưa sang giao cho quan Tổng đốc Lưỡng Quảng để đệ về Kinh, chứ không mấy khi sứ ta sang đến Yên Kinh. Trong đời vua Dực Tông thì sử chép rằng năm Mậu Thìn(1868), ông Lê Tuấn, ông Nguyễn Tư Giản và ông Hoàng Tịnh sang sứ Tàu. Năm Quí Dậu (1873), lại có các ông Phan Sĩ Thục, ông Hà Văn Khai và ông Nguyễn Tu sang sứ Tàu, để bày tỏ việc đánh giặc Khách ở Bắc kỳ.
     Từ năm Giáp Tuất (1874) trở đi, Triều đình Huế đã ký hòa ước với Pháp, công nhận nước Nam độc lập, không thần phục nước nào nữa, nhưng vua Dực Tông vẫn cứ theo lệ cũ mà triều cống nước Tàu, có ý mong nước Tàu sang giúp mình. Năm Bính Tí (1876), vua Dực Tông sai ông Bùi Ân Niên tức là ông Bùi Dỵ, ông Lâm Hoành và ông Lê Cát sang sứ nhà Thanh. Năm Canh Thìn (1880), sai ông Nguyễn Thuật, Trần Khánh Tiên, Nguyễn Hoang sang Yên Kinh dâng biểu xưng thần và các đồ cống phẩm. Năm sau, Triều đình nhà Thanh sai Đường Đình Canh sang Huế bàn việc buôn bán. Một bên đã hòa với nước Pháp, nhận theo chính lược ngoại giao của nước Pháp mà độc lập, một bên cứ triều cống nước Tàu, có ý để cầu viện, bởi thế cho nên chính phủ Pháp lấy điều đó mà trách Triều đình ta vậy.
     4. Tình thế nước Tàu.
     Xưa nay ta công nhận nước Tàu là thượng quốc và giữ lệ triều cống. Khi trong nước có việc biến loạn phải nhờ nước Tàu sang cứu viện. Từ thế kỷ thứ XIX trở đi, thế lực các nước bên Tây Âu mạnh lên mà tình thế nước Tàu thì rất suy nhược. Năm Đạo Quang thứ 19(1839)- năm Minh Mệnh thứ 20 bên ta, vì việc cấm thuốc nha phiến ở Quảng Đông nên có chiến tranh với nước Anh. Quân nước Anh đánh phá thành Ninh Ba, Thượng Hải...Vua Đạo Quang phải nhận những điều hòa ước năm Nhâm Dần (1842) làm tại Nam Kinh, nhường Hương Cảng cho nước Anh và mở những thành Quảng Châu, Hạ Môn, Phúc Châu, Ninh Ba và Thương Hải cho ngoại quốc vào buôn bán.
     Hòa ước Nam Kinh định xong, các nước ngoại dương vào buôn bán ở nước Tàu và đặt lĩnh sự ở Quảng Châu, Ninh Ba, Thương Hải... Đến năm Hàm Phong thứ 8 (1858)- năm Tự Đức thứ 11, nước Anh và nước Pháp ký hòa ước với nước Tàu, đặt sứ thần ở Bắc Kinh. Nước Tàu bội ước gây chiến tranh với hai nước ấy. Quân nước Anh và nước Pháp đánh lấy Hải Khẩu, rồi kéo lên đánh lấy Bắc Kinh. Vua Hàm Phong phải nhận những điều hòa ước năm Canh Thân (1860) làm tại Thiên Tân.
     Từ đó nước Tàu bị các nước khác sách nhiễu mọi điều và bị đè nén nhiều cách. Lúc ấy nước Tàu chẳng khác gì cái nhà lớn đã bị nát sắp đổ, mà ta vẫn không tỉnh ngộ.
     5. Sự giao thiệp với nước Pháp
     Khi ông Philastre ra điều đình mọi việc ở Bắc kỳ xong, ông Rheinart ra Hà Nội thay. Ông Rheinart ở được mấy tháng giao quyền cho Thiếu tá Dujardin (La- Đăng) về lại Sài Gòn. Thiếu tá có đem binh thuyền giúp quan ta đi đánh giặc ở mạn Hải Dương và Quảng Yên.
     Hòa ước và thương ước ký xong, Triều đình sai ông Nguyễn Tăng Doãn ra Bắc kỳ cùng thiếu tá Dujardin chọn đất ở Hà Nội và ở Ninh Hải (Hải Phòng) để làm dinh làm trại cho quan quân nước Pháp, lại sai quan thượng thư bộ Hộ là ông Phạm Phú Thứ ra làm Hải An tổng đốc sung chức tổng lý thương chánh đại thần, cùng với ông Nguyễn Tăng Doãn và ông Trần Hi Tăng bàn định việc thương chánh ở Bắc Kỳ.
     Tháng 6 năm Ât Hợi (1875) chính phủ Pháp sai ông Rheinart sang làm khâm sứ ở Huế, ông Truc làm lĩnh sự ở Hải Phòng, và ông Kergaradec (Kê-la-đích) làm lĩnh sự ở Hà Nội. Triều đình sai ông Nguyễn Thành Ý vào làm lĩnh sự ở Sài Gòn. Ông Rheinart ở Huế đến tháng 10 năm Bính Tí (1876), thì cáo bịnh xin về, ông Philastre ra thay. Năm Mậu Dần (1878), bên Pháp có mở hội vạn quốc đấu xảo ở Paris, vua sai ông Nguyễn Thành Ý và ông Nguyễn Tăng Doãn đem đồ đi đấu xảo và cho người sang học ở Toulon. Năm Tân Tị (1881), Triều đình lại sai quan Lễ bộ thị lang là Phạm Bính sang Hương Cảng, đem 12 đứa trẻ con đi học ở trường Anh-cát- lợi, rồi lại sai sứ đi sang Tiêm La và sang Tàu mà không cho sứ thần nước Pháp biết, bởi vậy chính phủ Pháp lấy những điều đó mà trách Triều đình Huế không theo hòa ước năm Giáp Tuất (1874).
     Khi ông Philastre còn ở Huế, vì ông ấy là một người công chính và lại có học chữ Nho, cho nên Triều đình ta trọng đãi và có điều gì trang trải cũng còn dễ. Từ năm Kỷ Mão (1879) về sau, ông ấy về Pháp rồi, sự giao thiệp càng ngày càng khó khăn.
QUÂN PHÁP LẤY BẮC KỲ LẦN THỨ HAI
     1. Đại tá Henri Rivière ra Hà Nội
     Cuối năm Tân Tỵ (1881), hai người Pháp tên là Courtin và Villeroi được giấy thông hành đi lên Vân Nam, nhưng lên đến gần Lào Kay, bị quân Khách ngăn trở không đi được. Viên thống đốc Le Myre de Vilers bèn gửi thư về Pháp, nói rằng nước Pháp nên dùng binh lực mà dẹp cho yên đất Bắc Kỳ. Tháng 2 năm Nhâm Ngọ (1882), Thống đốc sai đại tá Henri Rivière đưa binh thuyền ra Hà Nội đồng thời viết thư vào Huế, nói rằng: đất Bắc Kỳ loạn lạc, luật nhà vua không ai theo. Người nước Pháp có giấy thông hành của An Nam cấp mà đi đến đâu cũng bị quân Khách ngăn trở. Ở Huế thì quan Việt Nam thất lễ với quan khâm sứ Rheinart. Vậy nên nước Pháp phải dùng cách để bênh vực quyền lợi của người nước Pháp. Được ít lâu, đại tá Henri Rivière đem hai chiếc tàu và mấy trăm quân ra đến Hải Phòng, rồi đi tàu nhỏ lên Hà Nội, đóng ở Đồn Thủy.
     2. Hạ thành Hà Nội lần thứ hai
     Quan tổng đốc Hà Nội bấy giờ là ông Hoàng Diệu thấy binh thuyền nước Pháp tự nhiên ra Bắc Kỳ, lấy làm nghi kỵ lắm, tuy có sai quan tuần phủ Hoàng Hữu Xứng ra tiếp đãi tử tế, nhưng trong bụng vẫn lo nên mới sai sửa sang thành trì để phòng bị. Đại tá Henri Rivière vào thành thấy vậy có ý không bằng lòng, bèn quyết ý đánh thành.
     5 giờ sáng ngày mồng 8 tháng 3 năm Nhâm Ngọ (1882), quan tổng đốc tiếp được tờ tối hậu thư của đại tá hạn cho đến 8 giờ phải giải binh, và các quan võ Việt Nam phải ra đợi lệnh ở Đồn Thủy. Đúng 8 giờ thì quân Pháp khởi sự đánh thành, 11 giờ thì thành đổ. Ông Hoàng Diệu trèo lên cây thắt cổ mà tự tận, còn các quan thì bỏ chạy cả. Lúc tiếp được thư của đại tá, thì ông Hoàng Diệu có sai Án sát sứ là Tôn Thất Bá ra thương thuyết. Ông Tôn Thất Bá ở trên thành bỏ thang trèo xuống vừa xong, thì quân Pháp bắn súng vào thành, ông ấy bỏ trốn mất. Đến khi hạ được thành rồi, đại tá sai tìm ông Tôn Thất Bá về quyền lĩnh mọi việc.
     Vua Dực Tông được tin thành Hà Nội thất thủ, bèn xuống chiếu truyền cho quan kinh lược chánh phó sứ là là ông Nguyễn Chính và Bùi Ân Niên đem binh lui về mặt Mỹ Đức để cùng với Hoàng Kế Viêm tìm cách chống giữ. Nhưng quan khâm sứ Rheinart sang thương thuyết rằng việc đánh thành Hà Nội không phải là chủ ý của nước Pháp, và xin sai quan ra giữ lấy thành trì. Triều đình bèn sai quan nguyên Hà Ninh tổng đốc là Trần Đình Túc làm Khâm sai đại thần, quan Tĩnh biên phó sứ là Nguyễn Hữu Độ làm phó khâm sai, ra Hà Nội để cùng với đại tá Henri Rivière thu xếp mọi việc. Đại tá trả thành Hà Nội cho quan ta, nhưng vẫn đóng quân ở trong Hành cung. Hai bên thương nghị mãi. Đại tá đòi 4 khoản: Phải nhận nước Pháp bảo hộ; Phải nhường Hà Nội cho nước Pháp; Đặt thương chánh ở Bắc Kỳ; Giao quyền cho người Pháp cai quản thương chánh.
     Ông Trần Đình Túc đệ những khoản ấy về Kinh. Triều đình hội nghị không đồng ý. Đến tháng 10 thì ông Trần Đình Túc về Huế, ông Nguyễn Hữu Độ ở lại làm Hà Ninh tổng đốc.
     3. Việc cầu cứu nước Tàu
     Triều đình bấy giờ nghĩ nước Pháp cố ý chiếm đoạt, nước Tàu có thể bênh vực nên sai ông Phạm Thận Duật sang Thiên Tân cầu cứu. Người Tàu muốn nhân dịp này để sang lấy nước ta. Khi thành Hà Nội thất thủ, quan tổng đốc Lưỡng Quảng là Trương Thụ Thanh làm mật sớ tâu với vua nhà Thanh, đại lược nói rằng: "Nước Nam và nước Tàu tiếp giáp với nhau mà thế lực nước Nam thật là suy hèn, không tự chủ được, vậy ta nên mượn tiếng sang đánh giặc mà đóng giữ ở các tỉnh thượng du. Đợi khi có biến thì ta chiếm lấy những tỉnh ở phía bắc sông Hồng Hà". Bởi vậy triều đình nhà Thanh sai Tạ Kính Bưu, Đường Cảnh Tùng đem quân sang đóng ở Bắc Ninh và Sơn Tây, sau lại sai quan bố chính Quảng Tây là Từ Diên Húc đem quân sang tiếp ứng.
     4. Quân Pháp lấy Nam Định
     Chính phủ Pháp muốn thu xếp xong việc bảo hộ ở nước Nam chấm dứt chiến tranh, nhưng sau thấy Triều đình Huế không chịu, lại thấy có quân Tàu sang đóng ở các tỉnh, bèn một mặt sai ông Charles Thomson sang làm thống đốc Nam Kỳ thay cho ông Le Myre de Vilers về Pháp; một mặt tiếp quân cho đại tá Henri Rivière và triệu quan khâm sứ Rheinart ở Huế về.
     Nguyên trước đại tá Henri Rivière ở Hà Nội chỉ có 400 lính, sau lại tiếp được 750 người nữa, đại tá bèn để đại úy Berthe de Villers với 400 quân ở lại giữ Hà Nội, còn bao nhiêu đem đi đánh Nam Định. Ngày 28 tháng 2 năm Quý Mùi (1883), quân Pháp đánh thành. Đánh đến trưa thì quân Pháp vào thành; quan tổng đốc Vũ Trọng Bình bỏ chạy, quan đề đốc Lê Văn Điếm tử trận, quan án sát sứ Hồ Bá Ôn bị thương.
     5. Đại tá Henri Rivière bị chết.
     Quan ta thấy quân Pháp tiến binh, cậy có quân Tàu sang cứu liền đổi thế hòa ra thế công. Một mặt quan tổng đốc Bắc Ninh là Trương Quang Đản và phó kinh lược Bùi Ân Niên đem binh về đóng ở Giốc Gạch, Gia Lâm để đánh Hà Nội. Đại úy Berthe de Villers đem quân ở Hà Nội sang đánh, quan quân phải lui về phía Bắc Ninh, quan tiết chế Hoàng Kế Viêm sai Lưu Vĩnh Phúc làm tiên phong đem quân về đóng phủ Hoài Đức đánh quân Pháp.
     Đại tá Henri Rivière lấy xong Nam Định về Hà Nội thấy quân ta và quân Cờ đen sắp đến đánh, bèn truyền lệnh tiến đánh phủ Hoài Đức. Sáng 13 tháng 4, đại tá đem 500 quân ra đánh ở mạn Cầu Giấy, bị quân cờ đen phục kích đổ ra đánh, quân Pháp chết và bị thương gần 100 người. Đại tá Henri Rivière tử trận, đại úy Berthe de Villers bị thương nặng.
     Sài Gòn được tin đại tá Henri Rivière chết, thống đốc Thomson điện cho chính phủ Pháp biết. Lúc đó ở Paris hạ nghị viện đang do dự việc đánh Bắc Kỳ. Khi được điện báo, nghị viện liền thuận cho chính phủ trích 5 triệu rưỡi phrăng chi cho binh phí, cử một viên quan văn làm toàn quyền, sang kinh lý ở Bắc Kỳ.
     Chính phủ Pháp điều Thiếu tướng Bouet ở Nam Kỳ ra làm thống đốc quân vụ ở Bắc Kỳ, sai Thiếu tướng Courbet đem một đội chiến thuyền sang tiếp ứng và cử ông Harmand- sứ thần Pháp ở Tiêm La sang làm toàn quyền.
     Ngày mồng 3 tháng 5, thiếu tướng Bouet đem 200 lính tây, 300 lính tập ra Hải Phòng. Thiếu tướng sửa sang chống giữ ở Hà Nội, Nam Định, lại cho Georges Vlavianos (ông Kiều) là người theo Đồ Phổ Nghĩa ngày trước, được phép mộ lính cờ vàng đi làm tiền quân. Quan ta đem quân về đánh quân Pháp ở Hà Nội, Hải Phòng và ở Nam Định, nhưng chỗ nào cũng thất bại.
     Quân ta không có sự thống nhất, ai đứng lên mộ được năm ba trăm người cho mang gươm mang giáo đi đánh, hễ đụng vài ba phát đạn trái phá thì xô đẩy nhau mà chạy; còn quân của nhà vua thì không luyện tập, súng đại bác toàn là súng cổ, súng tay thì ít và xấu. Như thế thì chống làm sao được với quân Pháp là quân đã quen đánh trận và lại có đủ súng ống tinh nhuệ?
     Bấy giờ cuộc hòa đổi ra chiến, súy phủ ở Sài Gòn đuổi quan lĩnh sự Việt Nam là ông Nguyễn Thành Ý về Huế. Trong khi việc nước đang rối rắm như thế thì vua Dực Tông mất. Ngài mất ngày 16 tháng 6 năm Quý Mùi (1883), trị vì được 36 năm, thọ 55 tuổi, miếu hiệu là Dực Tông Anh Hoàng đế.
VUA DỤC ĐỨC
Làm Vua được 3 ngày thị bị phế truất(Không có di ảnh)

     Sự phế lập ngôi Vua: Vua Dục Đức bị phế ngôi.
     Bản triều nhà Nguyễn truyền ngôi đến hết đời vua Dực Tông thì mất quyền tự chủ. Nước Nam từ đó thuộc về nước Pháp bảo hộ. Nghĩa là ngôi nhà Vua tuy vẫn còn, nhưng quyền chính trị do chính phủ Bảo Hộ quyết định. Ấy cũng vì thời đại biến đổi mà người mình không biết biến đổi, cho nên nước mình mới thành ra suy đồi. Vả lúc ấy ở ngoài Bắc Kỳ thì rối loạn, ở trong Triều thì quyền thần chuyên chế nên lại sinh ra lắm việc khó khăn.
     Vua Dực Tông không có con, nuôi 3 người cháu làm con nuôi : trưởng là ông Dục Đức, phong Thụy quốc công, thứ là ông Chánh Mông, phong Kiên Giang quận công, ba là ông Dưỡng Thiện. Khi ngài sắp mất, có để di chiếu nói rằng: Đức tính ông Dục Đức không đáng làm vua, mà ý ngài muốn lập ông Dưỡng Thiện, nhưng vì ông ấy còn bé, mà việc nước cần phải có vua lớn tuổi, cho nên phải lập con trưởng. Ngài lại cho Trần Tiễn Thành, Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết làm phụ chính.
     Được ba ngày thì Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết đổi tờ di chiếu, bỏ ông Dục Đức mà lập em vua Dực Tông là Lạng quốc công lên làm vua. Triều thần không ai dám nói gì, chỉ có quan ngự sử Phan Đình Phùng đứng dậy can rằng: "Tự quân chưa có tội gì mà làm sự phế lập như thế thì sao phải lẽ". Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết truyền đem bắt giam Phan Đình Phùng, rồi cách chức đuổi về.
     Lạng quốc công, húy Hồng Dật lên làm vua, đặt niên hiệu là Hiệp Hòa. Còn ông Dục Đức thì đem giam ở Dục Đức giảng đường.
VUA HIỆP HÒA

Làm Vua được 4 tháng thị bị quan quân Triều đình giết hại
     1. Quân Pháp lấy cửa Thuận An
     Vua Hiệp Hòa vừa lập xong, thì viên Toàn quyền mới là ông Harmand đến Hải Phòng cùng Thiếu tướng hải quân Courbet và Thiếu tướng lục quân Bouet để bàn định mọi việc. Một mặt, Thiếu tướng Bouet đem quân lên đánh đồn phủ Hoài; Thiếu tướng Courbet đem tàu vào đánh cửa Thuận An, bắt triều đình phải nhận nước Pháp bảo hộ.
     Ngày 12 tháng 7, Thiếu tướng Bouet lên đánh quân Cờ Đen ở mạn làng Vòng. Hai bên đánh nhau gần ba ngày. Sau quân Cờ Đen phải lùi lên đóng ở Đồn Phùng, nhưng lúc bấy giờ nước lũ lên to, đê vỡ nên quân Pháp không tiến lên được.
Ngày 16, Trung tá lục quân Brionval ở Hải Phòng đem quân đánh thành Hải Dương. Quân   Pháp tuy thắng, nhưng quân Cờ Đen còn mạnh, nên thiếu tướng Bouet phải điện về Paris xin thêm quân tiếp ứng.
     Trong khi Thiếu tướng Bouet tiến quân đánh Bắc Kỳ, thì Thiếu tướng Courbet cùng với viên toàn quyền Harmand đem tàu vào đánh cửa Thuận An, từ ngày 15 đến ngày 18 tháng bảy thì thành Trấn Hải vỡ. Quan trấn thành là Lê Sĩ, Lê Chuẩn tử trận, Lâm Hoành, Trần Thúc Nhân thì nhảy xuống sông tự tử.
     2. Hòa ước năm Quý Mùi (1883)
     Triều đình thấy nguy cấp liền sai quan xin hòa. Viên toàn quyền Harmand bắt quan ta phải giải binh tất cả các nơi, rồi cùng với ông De Champeaux lên Huế để nghị hòa. Triều đình sai quan Hiệp biện hưu trí là Trần Đình Túc làm khâm sai toàn quyền, Nguyễn Trọng Hợp làm phó, để cùng với quan Pháp hội nghị.
     Ngày 23 tháng 7 hòa ước lập xong, ông Harmand, ông De Champeaux, ông Trần Đình Túc và ông Nguyễn Trọng Hợp cùng ký.
     Tờ Hòa ước có 27 điều khoản nhưng có những điều chủ chốt: 1. Nước Nam chịu nhận nước Pháp bảo hộ, giao thiệp với ngoại quốc phải do nước Pháp chủ trương. 2. Tỉnh Bình Thuận thuộc về Nam Kỳ. 3. Quân Pháp đóng giữ ở đèo Ngang và ở Thuận An. 4. Từ tỉnh Khánh Hòa ra đến đèo Ngang thì quyền cai trị thuộc về Triều đình. Những điều khoản sau nói rằng viên khâm sứ ở Huế được quyền tự do ra vào yết kiến nhà vua. Còn đất Bắc Kỳ kể từ đèo Ngang trở ra thì nước Pháp đặt công sứ ở các tỉnh để kiểm soát những công việc của quan Việt Nam, nhưng người Pháp không dự vào việc cai trị ở trong hạt.
     Hòa ước ký xong, gửi về Paris để chính phủ duyệt y, rồi mới tuyên cáo cho thiên hạ biết. Ông De Champeaux ở lại Huế làm khâm sứ, viên toàn quyền Harmand ra Bắc Kỳ để kinh lý việc đánh dẹp.
     3. Việc ở Bắc Kỳ
     Triều đình Huế nhận hòa ước xong, sai quan Lại bộ thượng thư Nguyễn Trọng Hợp làm Khâm sai đại thần, quan Công bộ Thượng thư Trần Văn Chuẩn và quan Lại bộ tham tri Hồng Phi làm phó khâm sai, ra Bắc Kỳ để cùng với Toàn quyền Harmand hiểu dụ nhân dân và bãi quân thứ ở các nơi.
     Bấy giờ ở Bắc Kỳ có quan nhà Thanh là Dương Cảnh Tùng đóng ở Sơn Tây, Từ Diên Húc đóng ở Bắc Ninh, lại có quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc đóng ở đồn Phùng. Triều đình tuy có chỉ truyền cho quan ta phải rút quân về Huế, nhưng quan ta còn nhiều người muốn dựa nước Tàu chống giữ với quân Pháp nên không ai phụng chỉ. Bởi vậy cuộc chiến tranh ở Bắc Kỳ cứ tiếp diễn.
     4. Vua Hiệp Hòa bị giết
     Vua Hiệp Hòa muốn nhận chính sách bảo hộ để cho yên ngôi Vua, nhưng các quan nhiều người không chịu, lại thấy Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết chuyên chế thái quá, muốn dùng kế mà trừ bỏ đi, bèn đổi Nguyễn Văn Tường sang làm Binh bộ Thượng thư, Tôn Thất Thuyết làm Lại bộ Thượng thư, để bớt binh quyền của Tôn Thất Thuyết.
     Hai người thấy Vua có lòng nghi, sợ để lâu thành vạ, bèn vào tâu với bà Từ Dụ Thái hậu để lập ông Dưỡng Thiện là con nuôi thứ ba vua Dực Tông, rồi bắt vua Hiệp Hòa đem ra phủ ông Dục Đức cho uống thuốc độc chết. Vua Hiệp Hòa làm vua được hơn 4 tháng, sử gọi là Phế Đế.
     Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết giết vua Hiệp Hòa rồi, thấy quan Phụ chính Trần Tiễn Thành không theo ý mình, cũng sai người giết nốt.
VUA KIẾN PHÚC

    Vua ở ngôi được 6 tháng, lâm bệnh qua đời ngày mồng 6 tháng 4 
năm Giáp Thân (1884), miếu hiệu là Giản Tông Nghị Hoàng Đế.
      1. Vua Kiến Phúc.
     Ngày mồng 7 tháng 10 năm Quý Mùi (1883), ông Dưỡng Thiện, húy là Ưng Đăng lên ngôi làm vua, đặt niên hiệu là Kiến Phúc. Bấy giờ ngài mới có 15 tuổi, việc gì cũng do Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết quyết định. Đây là một trong 3 người cháu và con nuôi của Vua Dực Tông.
     Ở Bắc Kỳ, Hoàng Kế Viêm đóng tại Sơn Tây, Trương Quang Đản đóng tại Bắc Ninh cùng với quân Tàu chống giữ quân Pháp. Viên khâm sứ ở Huế lấy điều đó trách Triều đình. Triều đình lại có dụ ra truyền cho Hoàng Kế Viêm và Trương Quang Đản phải về kinh.
     Các quan bấy giờ cũng có ông về, cũng có ông nạp ấn trả Triều đình, hoặc đi chiêu mộ những người nghĩa dũng, hoặc đi theo quan nhà Thanh chống nhau với quân Pháp. Bấy giờ có quan đề đốc Nam Định là Tạ Hiện lĩnh chức đề đốc của Tàu, và quan án sát sứ Phạm Vụ Mẫn và quan tri phủ Kiến Xương Hoàng Văn Hòe bỏ chức mà đi; quan tán tương quân vụ ở Sơn Tây là Nguyễn Thiện Thuật bỏ về Hải Dương, đi mộ quân để chống Pháp.
     2. Sự đánh chiếm các tỉnh Bắc Kỳ.
     Viên Toàn quyền Harmand ra Bắc Kỳ sửa sang sự cai trị, lập ra những đội lính tuần cảnh, tục gọi là lính khố xanh, để phòng giữ các nơi, và bãi lính cờ vàng của thiếu tướng Bouet đã cho mộ được mấy trăm, vì những lính ấy hay cướp phá nhân dân. Do viên Toàn quyền xâm vào quyền quan binh nên thiếu tướng Bouet tỏ thái độ bất bình.
     Ngày mồng một tháng 8, thiếu tướng đem quân lên đánh Cờ Đen ở đồn Phùng. Hai bên đánh nhau quyết liệt. Quân Cờ Đen tuy phải lui, nhưng chưa thực thua. Thiếu tướng thấy đánh giặc chưa được và lại có ý bất hòa với viên Toàn quyền, bèn xin về Pháp, giao binh quyền lại cho đại tá Bichot. Được ít lâu, có quân tiếp viện ở Sài Gòn ra, đại tá Bichot bèn vào lấy tỉnh Ninh Bình.
     3. Lấy Sơn Tây
     Ngày 25 tháng 9, chính phủ Pháp cử thiếu tướng Courbet làm thống đốc quân vụ, kiêm chức Toàn quyền Bắc Kỳ, nguyên Toàn Quyền Harmand xin về Pháp. Từ đó việc quân binh, cai trị và giao thiệp đều do thiếu tướng Courbet toàn quyền. Thiếu tướng còn phải sửa sang mọi việc và đợi quân tiếp viện từ Pháp sang thì quan ta đem quân về đánh Hải Dương, đốt cả phố xá. Quan Pháp nghi tỉnh thần thông với văn thân, bèn bắt đầy vào Côn Lôn.
    Khi thiếu tướng tiếp nhận quân tiếp viện bên Pháp sang, số quân Pháp ở Bắc Kỳ bấy giờ được hơn 9.000 người, thiếu tướng chia ra làm hai đạo, đem cả thủy bộ tiến lên đánh thành Sơn Tây. Đánh từ sáng ngày 13 đến hết ngày 16 mới hạ được thành. Quân Cờ Đen chống giữ quyết liệt, nhưng quân ta và quân Tàu thấy súng của Pháp bắn lên mạnh quá, bỏ thành rút lên mạn ngược, quân Cờ Đen cũng chạy theo. Trận ấy quân Pháp bị 83 người tử trận và 319 người bị thương.
     4. Lấy thành Bắc Ninh
     Quân Pháp tuy đã lấy dược Sơn Tây, nhưng quân Tàu sang ngày càng đông, Thiếu tướng phải chờ có quân tiếp thêm mới đi đánh chỗ khác. Pháp lại sai một lữ đoàn sang Bắc Kỳ và sai Trung tướng Millot làm thống đốc quân vụ thay Thiếu tướng Courbet.
     Ngày 16 tháng giêng năm Giáp Thân (1884), thống tướng Millot sang nhậm chức, thiếu tướng Courbet được thăng lên Trung tướng và chỉ huy hải quân để giữ mặt bể. Bấy giờ quân Pháp cả thảy được hơn 1 vạn 6 nghìn người và 10 đội pháo thủ, chia làm 2 lữ đoàn. Một lữ đoàn ở bên hữu ngạn sông Hồng Hà đóng ở Hà Nội do thiếu tướng Brière de l Isle chỉ huy; một lữ đoàn ở bên tả ngạn sông Hồng Hà đóng ở Hải Dương chỉ huy là Thiếu tướng De Négrier.
     Bấy giờ con đường từ Hà Nội sang Bắc Ninh, chỗ nào cũng có quân Tàu và quân ta đóng. Thống tướng Millot lệnh cho Thiếu tướng Brière de I Isle đem quân qua sông Hồng Hà, theo sông Đuống (sông Thiên Đức) về phía đông. Quân của thiếu tướng De Négrier ở Hải Dương đi tàu đến Phả Lại lên bộ nhập với quân của Thiếu tướng Brière de I Isle rồi theo sông Cầu (sông Nguyệt Đức) tiến lên đánh Bắc Ninh.
     Hai bên đánh nhau từ ngày 11 tháng 2 đến ngày 16 thì Pháp lấy được Đáp Cầu. Quân Tàu thấy quân Pháp chặn mất đường lên Lạng Sơn, bèn bỏ Bắc Ninh rút lên mạn Thái Nguyên. Tối ngày 16, quân Pháp vào thành Bắc Ninh. Trận ấy quân Pháp chỉ mất có 8 người và 40 lính bị thương. Thiếu tướng Brière de I Isle đem quân lên đánh Yên Thế, đến ngày 23 lên lấy thành Thái Nguyên.
     5. Lấy Hưng Hóa.
     Hạ được thành Bắc Ninh và thành Thái Nguyên rồi, quân Pháp quay về mạn sông Hồng Hà để đánh Hưng Hóa và Tuyên Quang. Thiếu tướng Brière de l Isle đem lữ đoàn thứ nhất theo con đường Sơn Tây lên Hưng Hóa, dàn trận ở bên này sông Đà Giang. Hai bên đánh nhau từ sáng ngày rằm tháng 3, đến 2 giờ chiều thì quân Pháp tiến sang sông chỗ gần huyện Bất Bạt. 9 giờ sáng ngày 16, thiếu tướng De Négrier đem lữ đoàn thứ nhì tiếp viện, cả hai lữ đoàn cùng hợp lực tiến đánh. Quân Tàu và quân Cờ Đen thấy thế không chống được, bèn đốt phố xá, bỏ thành Hưng Hóa rút lên mạn ngược. Ông Hoàng Kế Viêm kéo quên lên núi, đi đường thượng đạo rút về Kinh. Trưa ngày 17 quân Pháp vào thành Hưng Hóa. Thiếu tá Coronnat đem một toán quân lên đánh phá đồn Vàng.
     6. Lấy Tuyên Quang
     Lấy xong Hưng Hóa, chỉ còn thành Tuyên Quang là chỗ quân Cờ Đen đóng giữ. Thống tướng Millot sai quân đem tàu đi dò xem sông Lô Giang tàu thủy lên được đến đâu, sau đó sai Trung tá Duchesne đem quân ở Hưng Hóa và một đội năm chiếc tàu binh lên đánh Tuyên Quang. Quân của trung tá Duchesne đóng ở Việt Trì khởi hành hôm mồng 3 tháng 5 đến ngày mồng 8 thì đến Tuyên Quang. Chỉ đánh độ một giờ đồng hồ thì quân Cờ Đen bỏ thành chạy.
     7. Hòa ước Fournier
     Bấy giờ tuy các tỉnh ở mạn trung châu Bắc Kỳ đều thuộc về quan Pháp cai quản, nhưng quân Tàu còn đóng ở Lạng Sơn, Cao Bằng và Lào Kay. Bởi vậy chính phủ Pháp muốn dùng cách giao thiệp với nước Tàu để chính phủ Tàu nhận cuộc bảo hộ của nước Pháp ở nước Nam. Bấy giờ có Trung tá hải quân Pháp tên là Fournier quen một người Đức tên là Détring làm quan thương chánh bên Tàu, ở Quảng Đông. Détring thân với quan tổng đốc Trực Lệ là Lý Hồng Chương. Détring gặp trung tá Fournier nói chuyện hòa với nước Tàu. Détring điện cho Lý Hồng Chương biết. Hai bên đều có ý muốn hòa cho êm chuyện.
     Chính phủ Pháp sai trung tá Fournier lên Thiên Tân để cùng với Lý Hồng Chương nghị hòa. Đến ngày 18 tháng 4 năm Giáp Thân (1884), thì lập xong hòa ước. Đại lược nói rằng nước Tàu thuận rút quân đóng ở Bắc Kỳ và chính phủ Tàu đồng ý giao ước của nước Pháp lập với nước Nam. Nghĩa là nước Tàu để cho nước Pháp được tự do xếp đặt mọi việc ở đất Việt Nam
     8. Hòa ước Patenôtre tháng 5 Giáp Thân (1884).
     Tờ giao ước ký xong thì trung tá Fournier điện cho thống tướng Millot ở Bắc Kỳ biết, quân Tàu ở Bắc Kỳ phải rút về. Lúc bấy giờ công sứ nước Pháp ở Bắc Kinh là ông Patenôtre ở Pháp sang, qua đến Sài Gòn, chính phủ Pháp sai ông ấy ra Huế sửa lại tờ hòa ước của ông Harmand đã ký ngày 23 tháng 7 năm Quý Mùi (1883). Ông Patenôtre và ông Rheinart ra Huế cùng với Triều đình thương nghị mấy ngày, rồi đến ngày 13 tháng 5 năm Giáp Thân là ngày mồng 6 tháng sáu năm 1884, ông Patenôtre cùng với ông Nguyễn Văn Tường, ông Phạm Thuận Duật và ông Tôn Thất Phan ký tờ hòa ước mới. Cả thảy có 19 khoản, đại để thì cũng như tờ hòa ước của ông Harmand, chỉ đổi có mấy khoản nói về tỉnh Bình Thuận và 3 tỉnh ở ngoài đèo Ngang là Hà Tĩnh, Nghệ An, Thanh Hóa vẫn thuộc về Trung kỳ.
     Tờ hòa ước ký xong, ông Rheinart ở lại làm Khâm sứ ở Huế, và ông Patenôtre hội cả các quan, bắt đem cái ấn của Tàu phong cho vua Việt Nam nung chảy mà hủy đi, nghĩa là từ đó nước Nam thuộc về nước Pháp bảo hộ, chứ không thần phục nước Tàu nữa.
     Hòa ước ký năm Giáp Thân là năm 1884, là hòa ước của Triều đình ở Huế ký với nước Pháp công nhận cuộc bảo hộ của Pháp và chia nước ta ra làm hai khu vực là Trung Kỳ và Bắc Kỳ. Tuy hai kỳ cũng thuộc về quyền bảo hộ của nước Pháp, nhưng mỗi kỳ có một cách cai trị khác. Về sau dần dần hòa ước năm 1884 cũng mất ý nghĩa và tất cả thực quyền thuộc về chính phủ bảo hộ. Triều đình ở Huế chỉ giữ cái hư vị mà thôi.
     Nước Việt Nam trước kia, từ Nam chí Bắc là một, có cái tính cách duy nhất hơn cả các nước khác. Văn hóa, lịch sử, phong tục, ngôn ngữ đều là một cả, mà nay thành ra ba xứ : Nam Kỳ, Trung Kỳ và Bắc Kỳ; mỗi kỳ có một chính sách riêng, luật lệ riêng như ba nước vậy. Thậm chí lúc đầu người kỳ này đi sang kỳ kia phải xin giấy thông hành mới đi được. Kỳ nghĩa là xứ, là khu trong một nước, chứ không có nghĩa là quốc gia.
     Một nước mà tam phân ngũ liệt như thế, thật là một mối đau lòng cho người Việt Nam là dân một nước đã có một lịch sử vẻ vang hàng mấy nghìn năm.
     9. Việc Triều chính ở Huế.
     Triều đình lúc bấy giờ việc gì cũng do hai quan phụ chính là Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết định đoạt. Tôn Thất Thuyết là người tính tình nóng nảy, dữ dội, ai cũng khiếp sợ nhưng tài năng thì kém, lại nhát gan, cho nên đa nghi và hay chém giết. Nguyễn Văn Tường là người ở Quảng Trị, thi đỗ cử nhân năm Tự Đức thứ 5, thật là một người có tài trí, giỏi nghề giao thiệp, nhưng có tính tham lam và tàn nhẫn.
     Hai ông ấy chuyên giữ triều chính. Quan lại thì ở tay ông Tường, binh quyền thì ở tay ông Thuyết nhưng việc gì cũng do ông Thuyết quyết định. Trong Triều từ hoàng thân quốc thích cho đến các quan, ai có điều gì trái ý hai ông ấy là bị giam giữ hay bị chém giết.
     Ông Thuyết thì mộ quan phản nghĩa để giữ mình, và thường hay tiếm dụng nghi vệ của vua; ông Tường thì chịu tiền hối lộ của những người Khách, cho chúng nó đem tiền sềnh, là một thứ tiền niên hiệu Tự Đức, mỏng và xấu, đúc ở bên Tàu đem sang, bắt dân phải tiêu. Ai không tiêu thì phải tội. Vả lúc ấy vua hãy còn trẻ tuổi chưa biết gì, cho nên hai ông ấy lại càng chuyên chế .
     Vua Kiến Phúc lên ngôi vừa được hơn 6 tháng, đến ngày mồng 6 tháng 4 năm Giáp Thân (1884) thì phải bệnh mất, miếu hiệu là Giản Tông Nghị Hoàng Đế.
VUA HÀM NGHI

VUA HÀM NGHI 
Vua Hàm Nghi (1871- 1943) tên húy là Nguyễn Phúc Minh, Nguyễn Phúc Ưng Lịch
Thời gian trị vì: 1884- 1995. 
     Vua Kiến Phúc mất, đáng lẽ ra con nuôi thứ hai của vua Dực Tông là ông Chánh Mông lên nối ngôi, nhưng Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết không muốn lập người lớn tuổi, sợ mình mất quyền, bèn chọn người con ông Chánh Mông là ông Ưng Lịch, mới 12 tuổi, lập lên làm vua, đặt niên hiệu là Hàm Nghi.
     Viên Khâm sứ Rheinart quy định cho Triều đình Huế: Khi Nam triều lập ai làm vua, thì phải xin phép nước Pháp. Nhưng Tường và Thuyết cứ tự tiện lập vua, không cho viên Khâm sứ biết. Viên Khâm sứ thấy vậy, viết thư ra Hà Nội. Thống tướng Millot bèn sai chức tham mưu là đại tá Guerrier đem 600 quân và một đội pháo binh vào Huế, bắt Triều đình phải xin phép lập ông Ưng Lịch lên làm vua. Tường và Thuyết làm tờ xin phép bằng chữ nôm gửi sang bên Khâm sứ. Viên Khâm sứ không nghe, bắt phải làm bằng chữ nho. Đến ngày 27 tháng 6, đại tá và viên Khâm sứ đi cửa chính vào điện làm lễ phong vương cho vua Hàm Nghi. Xong rồi quan Pháp lại trở ra Hà Nội.
CHIẾN TRANH VỚI NƯỚC TÀU
     1. Trận Bắc Lệ.
     Tại Bắc Kỳ, quân Pháp tưởng là việc hòa ước với nước Tàu đã xong, chỉ còn đợi ngày quân Tàu rút về để lên tiếp quản thành Lạng Sơn, Cao Bằng và Lào Kay. Cứ theo tờ hòa ước của trung tá Fournier ký ở Thiên Tân, thì vào ngày rằm tháng 5 quân Tàu ở Lạng Sơn, Thất Khê và Cao Bằng phải rút về, đến cuối tháng 5, thống tướng Millot sai Trung tá Dugenne đem 1.000 quân lên tiếp quản các thành ấy. Ngày mồng một tháng 5 nhuận quân Pháp lên đến đồn Bắc Lệ. Khi quân Pháp sang sông Thương, quân Tàu bắn vào quân Pháp, 3 người bị thương. Quân Tàu sai người đưa thư nói rằng đã biết có hòa ước, nhưng chưa được lệnh rút quân về, vậy xin hoãn lại 6 ngày để đợi lệnh Bắc Kinh. Trung tá Dugenne không chịu; đến quá trưa, trung tá cho người đưa thư sang bảo quân Tàu rằng: trong một giờ nữa mà quân Tàu không rút về thì quân Pháp sẽ tấn công. Đoạn rồi trung tá truyền lệnh tiến binh; đi được một lúc, thì quân Tàu phục hai bên đường bắn ra. Quân Pháp dàn trận đánh nhau đến tối. Sáng hôm sau, quân Pháp thấy quân Tàu sắp vây cả bốn mặt, bèn rút quân về bên này sông Thương để đợi quân cứu viện ở Hà Nội lên. Trận ấy quân Pháp bị 28 người tử trận, 46 người bị thương, còn những phu phen chết không biết bao nhiêu mà kể.
     Thống tướng Millot tiếp được tin quân Pháp thua ở Bắc Lệ, liền sai Thiếu tướng De Négrier đem 2 đại đội quân bộ, 2 đội pháo binh và một toán công binh đi đường Phủ Lạng Thương qua làng Kép, lên tiếp ứng cho trung tá Dugenne. Khi tiếp được quân của Trung tá, thiếu tướng Millot triệu Thiếu tướng De Négrier về Hà Nội để chờ lệnh và quân ở bên Pháp sang.
     2. Đánh Phúc Châu và vây Đài Loan.
     Chính phủ Pháp biết tình hình chiến sự ở Bắc Kỳ, liền điện cho Trung tướng hải quân Courbet đem tàu sang đóng gần thành Phúc Châu tỉnh lị Phúc Kiến và cho ông Patenôtre công sứ Pháp ở Bắc Kinh đòi nước Tàu phải trả 250 triệu tiền binh phí về việc chiến tranh ở Bắc Kỳ. Chính phủ 2 nước thương thuyết mãi, đến ngày 29 tháng 6, chính phủ Pháp gửi tối hậu thư đòi nước Tàu 80 triệu phật lăng tiền binh phí, hạn cho trả trong 10 năm. Đến ngày mồng ba tháng 7 năm Giáp Thân (1884), Trung tướng hải quân được lệnh đánh Phúc châu.
     Trung tướng lệnh cho các chiến thuyền bắn lên các pháo đài và phá các xưởng làm binh khí ở Phúc Châu, đánh cả chiến thuyền của Tàu đóng trong sông Mân Giang. Quân Pháp bắn phá Phúc Châu rồi đem binh thuyền vây đánh đảo Đài Loan và các cửa bể mãi đến tháng 6 năm Ất Dậu (1885), nước Tàu ký hòa ước mới thôi.
     3. Trận Đồn Chũ và Đồn Kép.
     Khi hải quân Pháp đánh phá ở mặt bể, quân Tàu ở quảng Đông, Quảng Tây kéo sang Bắc Kỳ càng ngày càng nhiều, quân tiếp ứng của Pháp mãi không thấy sang. Trung tuần tháng 7, Thống tướng Millot bèn cáo bệnh xin về, giao quyền lại cho thiếu tướng Brière de l Isle. Được ít lâu, Thiếu tướng Brière de l Isle tiếp được 6.000 quân ở Pháp sang, số quân bấy giờ cả thảy được non 2 vạn người, thiếu tướng bèn chia ra làm 4 đạo đi đánh quân Tàu và quân ta. Thiếu tá Servière đem quân lên mạn Đông Triều; trung tá Donnier đem quân theo sông Lục Nam đến đánh đồn Chũ và đồn Đầm; trung tá Defoy đem quân lên mạn sông Thương; thiếu tá Mibielle và thiếu tướng De Négrier thì đóng đại đồn ở Lạng Thương. Ngày 20 tháng 8, quân Pháp tiến đánh đồn Chũ, đồn Bảo Lạc và đồn Kép. Quân Tàu chống lại được một ngày, quyết liệt nhất là ở đồn Kép. Quân Tàu chết có đến 2.000 người; bên quân Pháp thì thiếu tướng De Négrier bị thương ở chân, 27 người tử trận và 100 người bị thương. Quân Tàu chết hại mất nhiều người, phải bỏ đồn Kép, đồn Bảo Lạc và đồn Chũ rút lui.
     Mạn đông bắc, quân Tàu đã lui, thiếu tướng Brière de l Isle bèn sai đại tá Duchesne đem 700 quân lên đánh quân Cờ Đen của Lưu Vĩnh Phúc ở mạn Tuyên Quang và lại sai trung tá Berger đem quân lên giữ Thái Nguyên.
     4. Trận Yên Bạc.
     Quân Tàu tuy đã thua ở đồn Chũ và đồn Kép, nhưng vẫn còn đóng ở địa hạt Lạng Sơn và Quảng Yên. Đến trung tuần tháng 11, quân Tàu lại về đóng ở An Châu, Thiếu tướng De Négrier đem quân bộ và quân pháo binh đi theo tả ngạn sông Lục Nam lên đánh quân Tàu ở núi Bóp. Quân Tàu chết đến hơn 600 người, quân Pháp thiệt hại 19 người tử trận và 65 người bị thương.
     5. Lấy thành Lạng Sơn.
     Năm 1885, tháng 11 năm Giáp Thân, Thiếu tướng Brière de l Isle được thăng chức Trung tướng và tiếp nhận hơn 1.000 quân ở Pháp sang. Sau đó tuyển mộ gần 7.000 phu và đem 7.500 quân, chia ra làm 2 đạo đánh Lạng Sơn. Đạo thứ nhất do thiếu tướng De Négrier, đạo thứ hai do đại tá Giovanninelle chỉ huy.
     Con đường đi từ Kép đến Lạng Sơn là đường hẻm trong núi, chỗ nào cũng có quân Tàu đóng, nên quân Pháp mới dùng kế đánh ngang từ đồn Chũ đánh lại, để lấy đồn Tuần Muội. Thiếu tướng De Négrier cho quân lên đồn Kép nghi binh, rồi bí mật về đồn Chũ đem quân qua đèo Vân, lấy đồn Đồng Sơn(đồn Sung) và đồn Tuần Muội. Quân Tàu đang đóng ở Bắc Lệ, thấy quân Pháp đã chặn đường, liền bỏ chạy. Thiếu tướng De Négrier đem quân đánh Lạng Sơn, trưa hôm 29 tháng chạp thì lấy được thành. Đánh từ ngày 25 đến 29 tháng chạp, quân Pháp thiệt mất 40 người tử trận và 22 người bị thương. Sau khi lấy được thành Lạng Sơn, quân Pháp tiến đánh Đồng Đăng. Quân Tàu chạy lên Thất khê, ải Nam Quan về Tàu. Đến ngày mồng 8 tháng giêng năm Ất Dậu (1885), thiếu tướng De Négrier lên cửa Nam Quan, cho phá ải quan, rồi về giữ Lạng Sơn.
     6. Thành Tuyên Quang bị vây.
     Khi quân Pháp đánh Lạng Sơn, quân Tàu và quân Cờ Đen ở mạn sông Hồng Hà và sông Lô Giang kéo về đánh Tuyên Quang. Quân Pháp ở trong thành hơn 600 người do Thiếu tá Dominé chỉ huy. Quân Lưu Vĩnh Phúc dùng đủ kế phá thành, quân Pháp trong thành cố sức chống giữ. Trung tướng Brière de l Isle để Thiếu tướng De Négrier ở lại giữ thành Lạng Sơn, đem quân đi đường đồn Chũ về Hà Nội lên cứu Tuyên Quang. Quân Tàu và quân Pháp giao chiến từ đó cho đến ngày 16 mới giải được vây. Trận ấy quân hai bên thiệt hại nhiều, nhưng quân Tàu không địch được quân Pháp, phải giải vây rút lên mạn ngược.
     7. Mất thành Lạng Sơn.
     Thành Tuyên Quang vừa được giải vây thì ở Lạng Sơn lại giao chiến. Quân Tàu tuy đã thua phải bỏ thành Lạng Sơn, nhưng quan đề đốc Quảng Tây là Phùng Tử Tài vẫn đóng quân ở Long Châu muốn sang đánh lấy lại Lạng Sơn. Ngày mồng 6 tháng 2 năm Ất Dậu (1885), quân Tàu sang đánh Đồng Đăng, thiếu tướng De Négrier đem quân lên cứu, rồi đánh sang Long Châu. Quân Pháp đánh trong 2 ngày, chết hại gần 200 người. Đến mồng 8, Thiếu tướng rút quân về Lạng Sơn. Ngày 13, quân Tàu đánh Kỳ Lừa, Thiếu tướng De Négrier bị thương nặng, giao quyền lại cho Trung tá Herbinger chỉ huy. Quân Tàu sang đông quá, trung tá phải bỏ thành Lạng Sơn rút về Tuần Muội, rồi về đồn Chũ và đồn Kép. Trung tướng Brière de l Isle được tin bại trận ở Lạng Sơn, điện về Pháp xin quân cứu viện và lên đồn Chũ để chỉ huy chống giữ. Quân Tàu lấy được Lạng Sơn chia quân giữ các chỗ hiểm yếu. Quân Cờ Đen và quân của các quan cựu thần về đánh phá ở mạn Hưng Hóa, Lâm Thao.
     8. Hòa ước Thiên Tân.
     Chính phủ Pháp nhận điện tín của Trung tướng Brière de l Isle về thất bại mất thành Lạng Sơn gây nự náo động chính trường Pháp. Thủ tướng Jules Ferry phải từ chức. Chính phủ Pháp thấy sự chiến tranh không lợi bèn ký giao ước đình chiến với nước Tàu. Một mặt, lệnh cho sứ thần nước Pháp ở Bắc Kinh là ông Patenôtre lập tờ hòa ước với chính phủ Tàu; một mặt cho quân sang tiếp ứng Bắc Kỳ và sai Trung tướng Roussel de Courcy làm Thống đốc quân dân sự vụ, Trung tướng Warnel làm tham mưu tổng trưởng, cùng với Thiếu tướng Jamont và Thiếu tướng Prudhomme đem hai sư đoàn sang Bắc Kỳ.
     Chính phủ Tàu thấy chiến tranh không có lợi, bèn ký hòa ước, sai quan sang Hà Nội truyền lệnh cho quân Tàu phải rút về. Ngày 27 tháng 4 năm Ất Dậu (1883)- năm Quang Tự thứ 11, ông Patenôtre và ông Lý Hồng Chương ký tờ hòa ước, đại lược nói rằng nước Tàu nhận cuộc bảo hộ của nước Pháp ở Việt Nam và lại hòa thuận buôn bán như cũ. Nước Pháp trả lại những nơi hải quân chiếm giữ ở mặt bể và bỏ không đòi cái khoản tiền binh phí. Ngày hai nước ký tờ hòa ước ở Thiên Tân, thì Trung tướng Courbet phải bệnh mất ở gần đảo Đài Loan. Hải quân Pháp chiếu theo điều ước rút quân về.
LOẠN Ở TRUNG KỲ
     1. Thống tướng De Courcy vào Huế.
     Việc đánh nhau với Tàu xong đồng nghĩa với việc Pháp bảo hộ ở nước Nam, nhưng nhiều nơi, quan quân ta vẫn chống nhau với quân Pháp, ở Huế thì Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết chuyên chế mọi đường.
     Tháng 9 năm Giáp Thân (1885), hai ông ấy đem ông Dục Đức giam vào ngục, không cho ăn uống để chết đói, đổ tội thông mưu với giặc. Hai ông ấy lại mộ quân tập lính và lập đồn Tân Sở ở Cam Lộ tỉnh Quảng Trị, đem đồ báu ngọc vàng bạc ra đấy, phòng khi có việc gì thì đem quân ra đó chống nhau với quân Pháp. Các ông ấy muốn kháng cự nên quân Pháp chiếm giữ Mang Cá ở thành Huế và bắt bỏ súng đại bác trên thành.
     Ngày 18 tháng 4 năm Ất Dậu (1885), thống tướng De Courcy sang Bắc kỳ. Bấy giờ sự hòa ước với Tàu đã xong, Thống tướng định vào Huế bắt Triều đình ta phải chịu quyền bảo hộ. Thống tướng đến Hà Nội nói chuyện với người Pháp và những người Nam ra làm quan với Pháp nắm tình hình ở Huế. Đến ngày 19 tháng 5 thì thống tướng đem gần 500 quân đi tàu vào Huế. Triều đình cử hai quan đại thần theo viên Khâm sứ Pháp là ông De Champeaux ra đón thống tướng ở cửa Thuận An. Sáng hôm sau, thống tướng cho đòi hai quan phụ chính sang Khâm sứ để định việc vào yết kiến vua Hàm Nghi.
     Hai ông Phụ chính tỏ ý tức giận vì sự đường đột của quân Pháp, ông Thuyết thì tướng mạo xấu, đầu trọc, béo, da đen và nhất là không am hiểu việc đối ngoại. Ông Tường là một tay giao thiệp giỏi, lại có nhiều mưu cơ và tài ứng biến, cho nên chỉ có một mình ông Tường sang ra mắt quan thống tướng De Courcy, còn ông Thuyết thì cáo bệnh không sang. Thống tướng thấy vậy, bảo ốm cũng phải khiêng sang. Tôn Thất Thuyết thấy quan Pháp ra oai như thế, phần thì tức giận, phần thì sợ, lại nhân lúc bấy giờ mới có điềm động đất, mới nghĩ bụng rằng đấy là điềm trời xui khiến bèn quyết ý sửa soạn để đánh nhau.
     Thống tướng De Courcy định đến hôm vào điện yết kiến vua Hàm Nghi phải mở cửa chính để quan nước Pháp đi và cả quân lính cùng đi vào cửa ấy. Triều đình thấy điều ấy trái với quốc lễ, xin để thống tướng đi cửa giữa, theo như sứ Tàu ngày trước, còn quân lính thì xin đi cửa hai bên, thống tướng nhất định không chịu.
     2. Triều đình chạy ra Tân Sở huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị
     Trưa 22 các quan ở Cơ Mật Viện sang Khâm sứ xin vào bàn định việc đi cửa chính, cửa bên, nhưng thống tướng De Courcy không tiếp. Bà Từ Dụ Thái Hậu sai quan đem đồ lễ vật sang tặng thống tướng, thống tướng cũng không nhận.
     Các quan thấy Thống tướng dữ dội như vậy, không hiểu sao quân Pháp khinh mạn Triều đình đến thế. Tôn Thất Thuyết thấy thế càng tức giận, thôi thì sống chết cũng liều một trận, họa may trời có giúp kẻ yếu hèn chăng? Các tướng định đến nửa đêm khởi sự phát súng bắn sang Khâm sứ và đánh trại lính của Pháp ở Mang Cá.
     Chiều hôm ấy Thống tướng mở tiệc đãi các quan Pháp. Tiệc vừa tan, thì súng ở trong thành nổ  đùng đùng, rồi những nhà ở chung quanh dinh Khâm sứ cháy, lửa đỏ rực trời. Quân Pháp thấy bất thình lình nửa đêm quân ta đánh phá như vậy, chưa biết ra thế nào, chỉ yên lặng mà chống giữ. Đến sáng ngày 23 mới tiến lên đánh, thì quân ta thua chạy. Nguyễn Văn Tường cho người vào điện tâu xin rước vua và các bà Thái Hậu tạm lánh lên Khiêm Lăng. Khi xa giá ra gần đến cửa hữu thì gặp Nguyễn Văn Tường đã chực sẵn để đi hộ giá, nhưng lệnh truyền cho Nguyễn Văn Tường ở lại để thu xếp mọi việc. Nguyễn Văn Tường vâng lệnh trở lại. Xa giá đi qua làng Kim Long, lên đến chùa Thiên Mụ, thì Tôn Thất Thuyết đem quân chạy đến truyền rước xa giá quay trở về Trường Thi.
     Lúc bấy giờ vương tôn công tử, người đi ngựa, kẻ đi chân, dân gian thì trẻ cõng già, đàn bà dắt trẻ con, ai nấy chạy hốt hoảng tìm đường tránh cho khỏi chỗ binh đao. Xa giá đến Trường Thi vào nghỉ được một lát, thì Tôn Thất Thuyết lại giục lên đường, nói rằng quân Pháp đã sắp đuổi tới. Tối ngày 23, xa giá vào nghỉ nhà một người bá hộ, sáng ngày 24 ra đi, đến tối mới tới thành Quảng Trị. Quan tuần phủ Trương Quang Đản ra rước xa giá vào Hành cung và đặt quân lính để phòng giữ. Trận đánh nhau ở Huế, quân Pháp mất 16 người và 80 người bị thương. Sách Tây chép rằng quân ta chết đến vài nghìn người, còn bao nhiêu khí giới lương thực và hơn một triệu tiền của đều mất cả.
     3. Nguyễn Văn Tường ra đầu thú
     Tại Huế, cả buổi sáng hôm 23, quân Pháp chiếm lấy thành trì và giữ gìn các nơi. Còn quan ta, người thì đi theo xa giá, người thì ẩn nấp một nơi, chưa biết thế nào, chưa ai dám ra. Đến trưa hôm ấy, Nguyễn Văn Tường vào ăn cơm nhà ông giám mục Caspard, rồi nhờ ông ấy đưa ra thú với thống tướng De Courcy. Thống tướng cho Nguyễn Văn Tường ra ở Thương bạc viện, giao cho đại úy Schmitz và một toán lính Pháp phải coi giữ, và hẹn cho trong hai tháng phải làm thế nào cho yên mọi việc.
     4. Xa giá các bà thái hậu về Khiêm Lăng
     Nguyễn Văn Tường viết sớ ra Quảng Trị xin rước xa giá trở về Kinh cho yên lòng người. Nhưng lúc ấy vua Hàm Nghi và tam cung là bà Từ Dụ Thái hoàng thái hậu, mẹ đức Dực Tông, bà Hoàng thái hậu là vợ đức Dực Tông và mẹ nuôi vua Dục Đức, bà Hoàng thái phi là vợ thứ đức Dực Tông và mẹ nuôi vua Kiến Phúc, bị Tôn Thất Thuyết gìn giữ, sớ của Nguyễn Văn Tường gửi ra vấn an, ông ấy giấu đi không cho Vua biết. Ai cũng muốn xin rước xa giá lên Tân Sở để lo liệu sự khôi phục. Đức Từ Dụ và hai bà Thái hậu nhất định không chịu đi.
     Ngày 27, Tôn Thất Thuyết nghe tin có tàu Pháp sắp đến, bèn xin tam cung ở lại Quảng Trị và xin rước vua lên Tân Sở. Khi sắp đi, vua Hàm Nghi vào lạy ba bà Thái hậu, tình ly biệt, nỗi sầu thảm, kể sao cho xiết! Vua đi khỏi độ một giờ thì bọn nội giám trở lại nói rằng Tôn Thất Thuyết không cho đi. Đến ngày 28, tam cung mới tiếp được tin của Nguyễn Văn Tường ra nói xin rước xa giá trở về Huế, mọi việc đã thu xếp xong rồi. Bà Từ Dụ cho người đi rước vua trở lại để cùng về Huế, nhưng tìm mãi không biết Vua ở đâu, chỉ tiếp được thư của Tôn Thất Thuyết gửi về nói Nguyễn Văn Tường phản trắc, xin đừng có nghe. Ngày 30 lại tiếp được sớ của Nguyễn Văn Tường giục xa giá trở về. Đức Từ Dụ mới quyết ý về Kinh, định ngày mồng 4 thì lên đường, sai quan tuần phủ Trương Quang Đản đem quân đi hộ giá. Đến tối ngày mồng 5, xa giá các bà Thái hậu về đến Khiêm cung. Nguyễn Văn Tường dâng sớ lên thỉnh an và tấu trình mọi việc.
     Trong khi Vua đi vắng, thống tướng De Courcy đặt ông Thọ Xuân lên làm giám quốc, giao quyền binh bộ thượng thư cho viên Khâm sứ De Champeaux để bãi việc binh lính của ta, gọi quan kinh lược Bắc kỳ là Nguyễn Hữu Độ và quan Tổng đốc Nam Định là Phan Đình Bình về cùng với Nguyễn Văn Tường coi việc cơ mật. Hai ông ấy ở Bắc Kỳ đã hiểu mọi việc và biết theo chính sách bảo hộ nên Thống tướng triệu về để thu xếp mọi việc. Nguyễn Văn Tường và Nguyễn Hữu Độ không hợp nhau, Nguyễn Hữu Độ lại trở ra Bắc Kỳ.
     5. Quân Cần Vương.
     Tôn Thất Thuyết ở Quảng Bình làm hịch cần vương truyền đi các nơi, bởi vậy chỉ trừ những chỗ chung quanh Kinh thành ra, còn tự Bình Thuận trở ra cho đến Nghệ An, Thanh Hóa, chỗ nào sĩ dân cũng nổi lên, đổ cho dân bên đạo gây thành mối loạn nên đến đốt phá những làng có đạo. Sách tây chép rằng từ đầu tháng 6 cho đến cuối tháng 8, dân bên đạo có 8 ông cha cố và hơn 2 vạn người bị giết.
     Thống tướng De Courcy thấy chỗ nào cũng có loạn, bèn trở ra Bắc Kỳ, hội các tướng để bàn sự đánh dẹp. Thống tướng sai Đại tá Pernot đem 1.500 quân ở Huế ra đuổi Tôn Thất Thuyết, sai Thiếu tướng De Négrier đem quân từ Thanh Hóa đánh vào. Chính phủ Pháp điện sang không cho Thống tướng khởi sự dùng đại binh, vả lại bấy giờ ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ có bệnh dịch tả, quân Pháp chết hại đến ba bốn ngàn người nên việc dùng binh phải đình lại. Tại Huế thì mãi không ai biết vua Hàm Nghi ở đâu. Triều đình mỗi ngày một rối, việc lập Vua mới tuy đã định rồi nhưng còn lôi thôi chưa xong.
     Đến ngày 27 tháng 7, vừa hết hạn 2 tháng của thống tướng De Courcy hẹn cho Nguyễn Văn Tường, vả bấy giờ ở Bắc Kỳ lại có nhiều người ghét Nguyễn Văn Tường xin thống tướng trị tội. Ngày 28, Thống tướng bắt quan Phụ chính Nguyễn Văn Tường, quan Hộ bộ thượng thư Phạm Thận Duật và Tôn Thất Đính là thân sinh ra Tôn Thất Thuyết, đem đày ra Côn Lôn. Phạm Thận Duật đang đi tàu thì mất, phải ném xuống bể. Nguyễn Văn Tường thì sau lại phải đày ra đảo Tahiti ở Thái Bình Dương, được ít lâu cũng mất, cho đem xác về chôn ở quê nhà.
VUA ĐỒNG KHÁNH

                                                            VUA ĐỒNG KHÁNH
     Thống tướng De Courcy bắt ông Nguyễn Văn Tường đi đày, đem Nguyễn Hữu Độ về cùng với Phan Đình Bình coi việc triều chính, sai Nguyễn Trọng Hợp ra quyền kinh lược ở Bắc Kỳ. Thống tướng sai ông De Champeaux lên Khiêm cung yết kiến đức Từ Dụ xin lập ông Chánh Mông là Kiên giang quận công lên làm vua.
     Ngày mồng 6 tháng 8, ông Chánh Mông phải thân hành sang bên Khâm sứ làm lễ thụ phong, rồi làm lễ tấn tôn, đặt niên hiệu là Đồng Khánh.
     Vua Đồng Khánh tính hiền lành, hay trang sức và cũng muốn duy tân, rất được lòng người Pháp; Đình thần thì nhiều người đã biết theo chính sách của bảo hộ nên mọi việc trong Triều đều được yên ổn. Vua Hàm Nghi còn ở mạn Quảng Bình, kéo cờ nghĩa để chống nhau với quân Pháp, truyền hịch cần vương để mong đường khôi phục. Lúc bấy giờ, lòng người còn tưởng nhớ chúa cũ, cho nên từ tỉnh Bình Thuận trở ra, chỗ nào cũng có người nổi lên đánh phá.
     Tại Quảng Nam, các thân hào lập ra Nghĩa hội có quan sơn phòng sứ là Trần Văn Dự làm chủ, rồi những tỉnh Phú Yên, Bình Định, Bình Thuận đều noi theo mà nổi lên. Tại Quảng Trị có các ông Trương Đình Hội, Nguyễn Tự Như, ở Quảng Bình có quan nguyên tri phủ là Nguyễn Phạm Tuân, ở Hà Tĩnh có cậu ấm Lê Ninh; ở Nghệ An có ông nghè Nguyễn Xuân Ôn và quan sơn phòng sứ Lê Doãn Nhạ; ở Thanh Hóa có Hà Văn Mao, v.v.. Những người ấy đều xướng lên việc cần vương, đem quân đi hoặc chiếm giữ tỉnh thành, hoặc đánh lấy các phủ huyện, và đốt phá những làng có đạo. Tại ngoài Bắc thì các quan cựu thần là quan đề đốc Tạ Hiện, quan tán tương Nguyễn Thiện Thuật tụ họp ở Bãi Sậy, rồi đi đánh phá ở mạn trung châu, còn ở mạn thượng du, thì ở chỗ nào cũng có quân giặc Tàu quấy nhiễu. Bởi vậy quân Pháp phải chia binh ra chống giữ các nơi.
     7. Thống tướng De Cource bị triệu hồi về Pháp
     Thống tướng De Courcy thấy ở ngoài Bắc nhiều việc, bên để Thiếu tướng Prudhomme ở lại Huế, rồi ra Hà Nội kinh lý mọi việc. Thống tướng tính khắc khổ và đa nghi, nên công việc càng ngày càng khó. Tại Pháp thì có nhiều người không muốn giữ đất Bắc Kỳ, có ý muốn bãi binh. Bởi vậy đến cuối năm 1885 là năm Ất Dậu, ông Brisson Thủ tướng Pháp xin Nghị viện cho lấy ra 75 triệu phật lăng để chi tiêu về việc Bắc Kỳ. Nghị viện đặt hội đồng để xét việc ấy. Hội đồng định rút quân về và chỉ cho 18 triệu phật lăng mà thôi. Đến khi bỏ phiếu đảng theo Chính phủ được 274 phiếu, và đảng phản đối với Chính phủ được 270, nghĩa là đảng muốn giữ đất Bắc Kỳ chỉ hơn có 4 phiếu. Thủ tướng Brisson thấy trong nghị viện có nhiều người không hợp ý mình bèn xin từ chức.
     Ông Freycinet lên làm thủ tướng, thấy thống tướng De Courcy ở bên nước Nam làm lắm việc lôi thôi, bèn điện sang triệt về Pháp, giao binh quyền lại cho Trung tướng Warnel và sai ông Paul Bert là quan văn sang sung chức thống đốc, để kinh lý mọi việc ở nước Nam.
     8. Vua Hàm Nghi ở Quảng Bình
     Bấy giờ tuy ở Huế đã lập vua Đồng Khánh rồi, nhưng đảng cựu thần còn có nhiều người theo phò vua Hàm Nghi, quyết chí chống lại quân Pháp. Quan Pháp bèn sai đại tá Chaumont đem quân ra đóng ở thành Quảng Bình, để chặn đường không cho đảng Tôn Thất Thuyết thông với Bắc Kỳ. Nhưng ở mạn Thanh Hóa, Nghệ An, bọn văn thân đánh phá rất dữ. Đại tá Chaumont bèn để đại tá Grégoire ở lại giữ thành Quảng Bình, rồi trở về Đà Nẵng lấy thêm binh và tàu chiến đem ra đóng ở thành Nghệ An, chia quân đi tuần tiễu các nơi.
     Tôn Thất Thuyết thấy thế không chống nổi quân Pháp bèn bỏ vua Hàm Nghi ở lại đồn Vé, thuộc huyện Tuyên Hóa (tên cũ là Qui Hợp Châu) tỉnh Quảng Bình, rồi cùng với đề đốc Trần Xuân Soạn đi đường thượng đạo, nói rằng sang cầu cứu bên Tàu.
     Vua Hàm Nghi bấy giờ phải ẩn nấp ở vùng núi huyện Tuyên Hóa có các con Tôn Thất Thuyết là Tôn Thất Đạm và Tôn Thất Thiệp cùng với đề đốc Lê Trực và Nguyễn Phạm Tuân hết sức giữ gìn và đem quân đi đánh phá ở mạn Quảng Bình và Hà Tĩnh.
     Tháng giêng năm Bính Tuất (1886), trung tá Mignot đem quân ở Bắc kỳ vào Nghệ An, rồi chia làm hai đạo: một đạo thì thiếu tá Pelletier đem lính tập theo sông Ngàn sâu vào mạn Tuyên Hóa; một đạo thì trung tá Mignot tự đem quân đi đường quan lộ vào giữ thành Hà Tĩnh, rồi vào đóng ở sông Gianh.
     Tại Huế, quân Pháp sai Trung tá Metzniger đem một toán quân ra tiếp ứng các đạo. Quân Pháp đóng ở chợ Đồn và ở Minh Cầm, rồi trung tá Metzniger đem ông cố Tortuyaux đi làm hướng đạo để lên lấy đồn Vé. Thế quân Pháp tiến lên mạnh lắm, quân văn thân chống lại không nổi, phải tan cả. Sang tháng hai, ở ngoài Bắc Kỳ có việc, viên thống dốc Paul Bert đã sang đến nơi, chính sách đổi mới nên triệt các đạo quân về, chỉ đóng giữ ở Quảng Khê, ở Roòn và ở chợ Đồn mà thôi. Quân văn thân thấy quân Pháp rút về, lại trở về đóng ở các đồn cũ.
     9. Ông Paul Bert.
     Ngày mồng 5 tháng 3 năm Bính Tuất (1886), viên thống đốc Paul Bert sang đến Hà Nội. Lập tức đặt phủ Thống sứ ở Bắc kỳ và sở kiểm soát việc tài chính. Đến cuối tháng 3 thì Thống đốc vào yết kiến vua Đồng Khánh ở Huế và xin lập nha Kinh lược ở Bắc Kỳ, cho quan Kinh lược đại sứ được quyền cùng với phủ Thống sứ tự tiện làm mọi việc Lý do là từ ngoài Bắc vào đến Huế đường sá xa xôi, có việc gì phải tâu bẩm vào Bộ mất nhiều thời gian, bởi vậy xin cho được tự tiện làm việc, rồi trong một năm độ vài kỳ đem các việc tâu về Vua biết.
     Thống đốc Paul Bert ở Huế đến cuối trung tuần tháng 4 lại ra Hà Nội, rồi một mặt thì lo đánh dẹp, một mặt thì mở Pháp Việt học đường, lập Thương nghiệp cục, đặt lệ đồn điền. Chủ ý của thống đốc là muốn khai hóa đất Bắc Kỳ cho chóng được thịnh lợi. Chính phủ Pháp sai ông Bihourd sang lĩnh chức Thống đốc Pháp thay ông Paul Bert.
     10. Lập Tổng đốc Toàn quyền phủ.
     Nước Pháp đã lấy đất Nam Kỳ, lập bảo hộ ở nước Cao Miên, rồi lập bảo hộ ở đất Bắc Kỳ và ở Trung Kỳ, mở ra một thuộc địa lớn ở Viễn đông; nhưng buổi đầu thì mỗi xứ có một chức thủ hiến để coi việc chính trị. Đến năm Đinh Hợi (1887), Chính phủ Pháp đặt phủ Tổng đốc toàn quyền để điều khiển việc chính trị cả mấy xứ ở nước ta và nước Cao Miên. Tháng 10 năm Đinh Hợi (15 tháng 11- 1887), viên Tổng đốc toàn quyền mới và đầu tiên là ông Constant sang nhận chức ở Sài Gòn. Từ đó ở các nơi như Nam Kỳ thì có viên Thống đốc, Trung Kỳ và Cao Miên thì mỗi nơi có viên Khâm sứ, Bắc kỳ và Lào thì mỗi nơi có viên Thống sứ đứng đầu coi việc cai trị trong hạt; những việc gì quan hệ đến chính sách thì phải theo lệnh viên Tổng đốc toàn quyền mà thi hành.
VIỆC ĐÁNH DẸP TRUNG KỲ VÀ BẮC KỲ
     1. Việc đánh dẹp ở các nơi
       Trong khi Thống đốc Paul Bert xếp đặt mọi việc ở Bắc kỳ, thì ở Trung kỳ quân Cần vương ở các
  tỉnh vẫn đánh phá. Quân Pháp phải tìm cách đánh dẹp cho yên. Ở mạn Bình Thuận, Phú Yên thì   
  Thiếu tá De Lorme và viên Công sứ Aymonier cùng với Trần Bá Lộc đem lính tây và lính Nam kỳ  
   ra đánh dẹp. Trần Bá Lộc dùng cách dữ dội, chém giết rất nhiều, bởi vậy đất Bình Thuận không bao    
   lâu mà yên; rồi đem quân ra dẹp đảng Văn thân ở Phú Yên và Bình Định, bắt được cử nhân Mai   
   Xuân Thưởng, Bùi Điền, Nguyễn Đức Nhuận đem chém. Từ tháng 6 năm Bính Tuất (1886) đến  
   tháng 6 năm Đinh Hợi (1887), thì những tỉnh phía nam đất Kinh kỳ đã dẹp yên.
     2. Vua Đồng Khánh ra Quảng Bình
     Đất Trung kỳ từ Quảng Trị trở ra chưa được yên. Vua Đồng Khánh bèn định ra tuần thú mặt bắc, để dụ vua Hàm Nghi và những quan đại thần về cho yên việc đánh dẹp. Quân Pháp sai đại úy Henry Billet đi hộ giá.
     Ngày 16 tháng 5 năm Bính Tuất(1886), xa giá ở Kinh xuất phát, mãi đến cuối tháng 7 mới tới Quảng Bình. Xa giá đi đến đâu thì đảng cựu thần vẫn không phục, cứ đem quân đến chống cự, cho nên việc Vua đi tuần thú lần ấy không có kết qủa gì. Ra đến Quảng Bình thì vua Đồng Khánh yếu, ở được vài mươi ngày rồi phải xuống tầu đi đường biển trở về Huế.
     3. Hoàng Kế Viêm ra quân thử mạn Quảng Bình.
     Vua Đồng Khánh về Huế được vô sự. Đến tháng 9, Vua chức cho Hoàng kế Viêm và phong cho làm Hữu trực kỳ An phủ kinh lược đại sứ, được quyền tiện nghi hành sự ra Quảng Bình dụ vua Hàm Nghi và các quan cựu thần về. Trong tờ dụ của vua Đồng Khánh ban cho Hoàng Kế Viêm đại ý nói rằng: Nếu vua Hàm Nghi mà thuận về, thì sẽ phong cho làm làm Tổng trấn ba tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An và Hà Tĩnh, lại cấp cho bổng lộc theo tước vương. Các quan cựu thần như các ông Trương Văn Ban, Nguyễn Trực, Nguyễn Chư, Lê Mô Khải, Nguyễn Nguyên Thành, Phạm Trọng Mưu, Nguyễn Xuân Ôn, Lê Doãn Nha, Ngô Xuân Quỳnh, ai về thú thì được phục nguyên chức, cho vào làm quan ở các tỉnh từ Quảng Trị trở vào. Còn các ông Trần Xuân Soạn, Nguyễn Phạm Tuân, Phan Đình Phùng mà chịu về thì sẽ tha những điều lỗi trước và phong cho làm chức hàm khác. Những điều ấy đã bàn với viên Thống đốc Paul Bert, hai bên đã thuận cho như thế, quyết không sai lời.
     Bấy giờ quan quân Đề đốc Lê Trực đóng ở mạn Thanh Thủy, thuộc huyện Tuyên Chánh; quân của Tôn Thất Đạm là con Tôn Thất Thuyết thì đóng ở ngàn Hà Tĩnh, về hạt Kỳ Anh và Cẩm Xuyên. Còn Tôn Thất Thiệp và Nguyễn Phạm Tuân thì phò vua Hàm Nghi ở mạn huyện Thanh Hóa.
     Ông Hoàng Kế Viêm ra Quảng Bình, sai người đi dụ ông Lê Trực về. Nhưng các ông ấy cứ nhất thiết không chịu, chỉ có bọn thủ hạ lác đác vài người ra thú mà thôi. Bởi vậy, việc Hoàng Kế Viêm ra kinh lược cũng không thành công, cho nên đến tháng 5 năm Đinh Hợi (1887), lại phải triệt về.
     4. Lập đồn Minh Cầm.
     Triều đình Huế thấy dùng cách phủ dụ không được, bèn cho người Pháp tìm kế đánh dẹp. Người Pháp cũng biết thế lực của đảng vua Hàm Nghi chẳng được bao nhiêu, cốt tìm đường mà chiếm dần địa thế và mua chuộc những đứa làm tay trong, thì tất thế nào rồi cũng trừ hết được, bởi vậy cho nên không dùng đến đại binh.
     Trước đại úy Mouteaux ở Quảng Bình đã cùng với ông cố Tortuyaux đem quân đi đánh lấy đồn của Lê Trực ở Thanh Thủy, nhưng quân của ông ấy vẫn không tan, cứ đành phá mãi. Đến tháng giêng năm Đinh Hợi (1887), đại úy Mouteaux đem quân lên lập đồn Minh Cầm đóng ở mé trên Thanh Thủy. Đại úy biết ông Lê Trực là người có nghĩa khí, và trong khi hai bên chống cự với nhau không bao giờ ông ấy làm điều tàn ác, cho nên đại úy vẫn có ý trọng lắm. Trước đã cho người đưa thư lên dụ ông ấy về thú. Ông ấy phúc thư lại rằng: "Tôi vì vua, vì nước, chết sống cũng một lòng làm cho hết việc bổn phận, chứ không dám tham sự sống mà quên việc nghĩa".
     Từ khi quân Pháp đóng đồn ở Minh Cầm, các ông Lê Trực và Nguyễn Phạm Tuân phải lui lên mé trên. Ông Lê Trực thì ra mạn Hà Tĩnh, Ông Nguyễn Phạm Tuân thì lên đóng ở làng Yên Lộc về phía sông Gianh.
     Qua tháng 3, nhờ có do thám, biết chỗ ông Nguyễn Phạm Tuân đóng, đại úy Mouteaux bèn đem quân lên vây làng Yên Lộc, bọn ông Nguyễn Phạm Tuân, trong khi bất ý, đều bị bắt cả. Ông Nguyễn Phạm Tuân phải đạn bên cạnh sườn, sống được mấy ngày thì mất.
     Quân Pháp tuy đã trừ được ông Nguyễn Phạm Tuân nhưng ông Lê Trực hãy còn, và vẫn chưa biết rõ vua Hàm Nghi ở chỗ nào, sau có những người ra thú, mách rằng muốn bắt vua Hàm Nghi thì mưu với tên Trương Quang Ngọc. Tên ấy là người bản xứ ở đấy và từ khi Vua ra ở vùng ấy nó được vào hầu cận, nó là một đứa khí độ tiểu nhân, thì chắc mua chuộc nó được. Đại úy định tìm cách để thông với tên Ngọc, cho người đi do thám, biết được tên Ngọc hiện đóng ở làng Chà Mạc, bèn đem quân lên vây làng ấy. Khi đến nơi, tên Ngọc thấy động, chạy thoát được. Đại úy sai tìm trong làng chỉ thấy có một bà lão, đại úy bèn đưa cái thư viết cho tên Ngọc, nhờ bà lão ấy đưa cho nó, rồi rút quân về đồn Minh Cầm.
     Được mấy hôm kỳ dịch những làng mé trên về thú ở đồn Minh Cầm, đại úy đưa cho chánh tổng những dân ấy mấy lạng thuốc phiện và mấy bì gạo trắng để gửi cho tên Ngọc và nhờ bảo nó dỗ vua Hàm Nghi về. Tên Ngọc nhận những đồ ấy và trả lời xin hết lòng giúp người Pháp, nhưng cần phải để thong thả, sợ việc tiết lộ ra thì không thành.
     Từ đó việc bắt vua Hàm Nghi chỉ trông cậy vào tên Ngọc. Bấy giờ có người con thứ Tôn Thất Thuyết là Tôn Thất Thiệp giữ gìn vua Hàm Nghi một cách nghiêm mật. Tôn Thất Thiệp thề sống chết không để cho quân Pháp bắt Vua được. Bởi vậy, hễ ai nói đến sự về thú thì bắt chém ngay, cho nên bọn tên Ngọc tuy đã hai lòng, nhưng chưa dám thực hiện.
     Ở mé ngoài, thì các ông Lê Trực và Tôn Thất Đạm, nay đánh chỗ này mai phá chỗ kia mà không sao bắt được. Đại úy Mouteaux đánh đuổi lâu ngày nhọc mệt, bèn xin về Pháp nghỉ.
     5. Vua Hàm Nghi bị bắt.
     Qua tháng giêng năm Mậu Tí (1888), viên Đại tá coi đạo quân ở Huế ra Quảng Bình, rồi chia quân đi tuần tiễu, để tìm vua Hàm Nghi và đuổi bắt ông Lê Trực và ông Tôn Thất Đạm. Đến tháng 9 năm ấy, quân lính mỏi mệt mà không thành công. Quân Pháp đã toan rút về giữ những đồn ở gần mạn bể, bỗng dưng có tên suất đội Nguyễn Đình Tinh hầu cận vua Hàm Nghi ra thú ở đồn Mang Cả, phía trên đồn Minh Cầm, và khai rõ tình cảnh cùng chỗ vua đóng. Người Pháp bèn sai tên Tinh đem thư lên dụ tên Ngọc về. Được mấy hôm tên Ngọc và tên Tinh về tình nguyện xin đi bắt vua Hàm Nghi.
     Người Pháp truyền cho bọn tên Ngọc phải bắt sống Vua Hàm Nghi, còn những người khác hễ ai chống cự, thì cứ giết đi. Ngày 26 tháng 9, tên Ngọc và tên Tinh đem hơn 20 đứa thủ hạ, người ở làng Thanh Lang và Thanh Cuộc lên vây làng Tả Bảo là chỗ vua Hàm Nghi đóng. Đến độ nửa đêm, khi chúng nó xông vào, thì Tôn Thất Thiệp còn đang ngủ, hoảng hốt cầm gươm nhảy ra bị chúng đâm chết. Vua Hàm Nghi trông thấy tên Ngọc làm phản như vậy, cầm thanh gươm đưa cho nó và bảo rằng: "Mày giết tao đi, còn hơn đưa tao về nộp cho Tây". Ngài vừa nói dứt lời, thì bọn chúng nó có một đứa lẻn ra sau lưng ôm quàng lấy ngài rồi giật thanh gươm ra. Từ khi ngài bị bắt rồi, ngài không nói năng gì nữa.
     Sáng hôm sau, bọn tên Ngọc võng ngài ra đến bến Ngã Hai, rồi đem xuống bè, đi mất hai ngày mới về đến đồn Thanh Lang, nộp cho viên đại úy coi đồn ấy là ông Boulangier. Đại úy lập tức đem ngài về đồn Thuận Bài đóng ở tả ngạn sông Gianh, gần chợ Đồn.
     Vua Hàm Nghi bấy giờ đã 18 tuổi, quan Pháp lấy vương lễ mà tiếp đãi. Tuy vậy ai hỏi gì, ngài cũng không nói, chỉ nhất thiết chối rằng mình không phải là Vua. Nhưng đến lúc vào trong buồng ngồi một mình, thì hai hàng nước mắt chứa chan, buồn vì nỗi nước đổ nhà tan, thân mình phải nhiều nỗi gian truân. Người Pháp đem vua Hàm Nghi xuống tầu về Thuận An, rồi đem đày sang bên xứ Algérie, là thuộc địa của nước Pháp, ở phía bắc châu Phi, mỗi năm cấp cho 2 vạn rưỡi phật lăng.
     Tên Trương Quang Ngọc được hưởng hàm lĩnh binh, tên Nguyễn Đình Tinh cũng được thưởng hàm quan võ. Còn bọn thủ hạ, đứa thì được thưởng hàm suất đội, đứa thì được thưởng mấy đồng bạc.
     Tôn Thất Đạm ở ngàn Hà Tĩnh, nghe tin vua Hàm Nghi bị bắt, bèn hội tướng sĩ lại, truyền cho ra thú để về làm ăn, rồi viết hai bức thư: một bức để dâng vua Hàm Nghi, xin tha lỗi cho mình làm tôi không cứu được Vua, và một bức gửi cho thiếu tá Dabat, đóng ở đồn Thuận Bài xin cho bọn thủ hạ ra thú. Viết xong thư, Tôn Thất Đạm nói rằng: "Bây giờ người Pháp có muốn bắt ta thì vào tìm thấy mả ta ở trong rừng!". Đoạn rồi thắt cổ mà tử tận.
     Ông Tôn Thất Thuyết làm đại tướng mà cư xử một cách rất hèn nhát không đáng làm người trượng phu chút nào, nhưng hai người con thì thật là bậc thiếu niên anh hùng, có thể che được cái xấu cho cha vậy.
     Quan đề đốc Lê Trực cũng đem hơn 100 quân ra thú ở đồn Thuận Bài. Triều đình ở Huế xem cái tờ xin ra thú, thấy lời lẽ của quan đề đốc cũ nói khảng khái, không được khiêm tốn, có ý bắt tội, nhưng người Pháp thấy là một người trung nghĩa, có lòng quý trọng, tha cho về yên nghiệp ở nhà.
     Ông Tôn Thất Đạm và ông Lê Trực là người phản đối với nước Pháp lúc bấy giờ, nhưng các ông ấy vì việc nước mà hết lòng làm bổn phận cho nên người Pháp cũng biết lượng tình mà thương tiếc. Sau ông Lê Trực về ở làng Thanh Thủy, thuộc huyện Tuyên Hóa, tỉnh Quảng Bình, người Pháp thường vẫn đi lại thăm nom và có ý kính trọng.
VUA THÀNH THÁI
VUA THÀNH THÁI
     Ngày 27 tháng chạp năm Mậu Tý là ngày 28 tháng giêng năm 1888, vua Đồng Khánh phải bệnh mất, thọ 25 tuổi, làm vua được 3 năm, miếu hiệu là Cảnh Tông Thuần Hoàng đế.
     Bấy giờ ông Rheinard lại sang làm Khâm-xứ ở Huế, thấy con vua Đồng-khánh còn nhỏ, và lại nhớ ông Dục Đức ngày trước, khi vua Dực Tông hãy còn, thường hay đi lại với người Pháp, bởi vậy viêm Khâm sứ nghĩ đến tình cũ mà truyền lập ông Bửu Lân là con ông Dục Đức lên làm vua.
     Ông Bửu Lân bấy giờ mới lên mười tuổi, đang cùng với mẹ phải giam ở trong ngục. Triều đình vào rước ra, tôn lên làm vua, đặt niên hiệu là Thành Thái, cử ông Nguyễn Trọng Hợp và ông Trương Quang Đản làm Phụ chính.
     1. Sự đánh dẹp ở Bắc Kỳ
     Khi nhà Thanh bên Tầu ký hòa ước với nước Pháp ở Thiên Tân, quân Tầu ở nước ta rút về. Nhưng các cựu thần như quan Tán tương quân vụ là Nguyễn Thiện Thuật và quan Đề đốc Tạ Hiện còn giữ ở vùng Bãi Sậy thuộc Hải Dương cùng với các thổ hào như Đốc Tít ở vùng Đông Triều; Đề Kiều ở vùng Hưng Hóa; Cai Kinh, Đốc Ngữ ở vùng Phủ Lạng Thương và Yên Thế; Lương Tam Kỳ, dư đảng cờ đen, ở vùng chợ Chui đều nổi lên tương ứng với nhau mà đánh phá. Lúc ấy quan quyền Kinh lược sứ là ông Nguyễn Trọng Hợp cử quan quyền Tổng đốc Hải Dương là Hoàng Cao Khải làm chức Tiểu phủ sứ đi đánh dẹp ở vùng Bãi Sậy.
     Hoàng Cao Khải đem quân đi đánh riết mấy mặt. Bọn văn thân người thì tử trận, người thì bị bắt. Nguyễn Thiện Thuật chạy sang Tầu, sau mất ở Nam Ninh, thuộc Quảng Tây. Đốc Tít ra hàng, phải đầy sang Alger, bên Algérie. Đề Kiều và Lương Tam Kỳ ra thú. Cai Kinh bị bắt, Đốc Ngữ ra thú, Hoàng Hoa Thám ở Yên Thế cũng ra thú, được giữ ở vùng ấy, mãi đến năm 1909 mới bị đánh đuổi, đến năm 1912 mới bị giết. Hoàng Cao Khải đi đánh dẹp có công, được chính phủ bảo hộ cho lãnh chức Bắc kỳ Kinh lược sứ.
     2. Việc Phan Đình Phùng.
     Từ năm Kỷ Sửu(1889) là năm Thành Thái nguyên niên cho đến năm Quý Tỵ (1893) là năm Thành thái ngũ niên, đất Trung kỳ không có việc gì quan hệ lắm. Các quan cựu thần, người thì về thú, người thì ẩn nấp ở chỗ sơn lâm. Riêng ông Phan Đình Phùng thì về đồn điền ở Vũ Quang phía bắc huyện Hương Khê, tỉnh Hà Tĩnh, rồi cho người đi sang Tầu, sang Tiêm, học đúc súng đạn, để đợi ngày khởi sự.
     Ông Phan Đình Phùng người Hà Tĩnh, thi đỗ Đình nguyên về đời vua Dục Tông, làm quan đến chức Ngự sử bị bọn quyền thần là Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết cách chức đuổi về. Sau ông ấy đứng đầu đảng văn thân để chống cự với quân Pháp. Ông không những là một người có tài văn chương  mà còn là một nhà thao lược, sửa sang quân lính có cơ ngũ, luyện tập tướng sĩ có kỷ luật, cho nên đại úy Gosselin làm quyển sách "Empire d Annam" có khen rằng: "Quan Đình nguyên Phan Đình Phùng có tài việc quân binh, biết luyện tập sĩ tốt theo phép Thái tây, áo quần mặc một lối, và đeo súng kiểu 1874, những súng ấy là súng của người quan Đình nguyên đúc ra thật nhiều mà máy móc cũng hệt như súng Pháp chỉ vì lòng súng không xẻ rãnh, cho nên đạn không đi xa được".
     Đến tháng 11 năm Qúi Tị (1893), ông sai người đến vây nhà tên Trương Quang Ngọc ở làng Thanh Lang, huyện Tuyên Hóa, bắt tên Ngọc chém đầu để báo thù việc tên ấy làm phản ác. Từ đó quân của quan Đình nguyên vẫy vùng ở mạn Hương Khê, đảng văn thân cũ lại về tụ họp ở đấy.
     Bấy giờ người Pháp không muốn dùng đại binh sợ náo động lòng người ở bên Pháp, cho nên chỉ sai quan đem lính tập đi đánh. Đánh từ cuối năm Qúi Tị (1893) cho đến cuối năm Ất Mùi (1895) ngót 2 năm trời mà không dẹp được, quân lính chết hại cũng nhiều. Bên Bảo hộ cũng đã tìm đủ mọi cách, như bảo Hoàng Cao Khải viết thư dụ Phan Đình Phùng về hàng cũng không được. Sau cùng Triều đình Huế thấy việc dai dẳng mãi không yên, mới xin chính phủ Bảo hộ sai quan Tổng đốc Bình định là Nguyễn Thân làm Khâm mạng tiết chế quân vụ đem quân ra tiễu trừ. Ông Phan Đình Phùng lúc bấy giờ tuổi đã già, mà thế lực mỗi ngày một kém, lại phải nay ẩn chỗ này, mai chạy chỗ kia, thật là lao khổ vô cùng, bởi vậy khi Nguyễn Thân đem quân ra đến Hà Tĩnh, thì ông đã phải bệnh mất rồi. Nguyễn Thân sai người đuổi đánh tìm thấy mả, đào lấy xác đem về xin người Pháp cho đem đốt lấy tro trộn với thuốc súng mà bắn đi. Có người nói rằng việc ấy tuy Nguyễn Thân trước định thế, nhưng sau lại cho đem chôn, vì muốn để làm cái tang chứng cho đảng phản đối với chính phủ Bảo hộ là quan Đình Nguyên đã mất rồi. Từ đó đảng văn thân tan vỡ; ai trốn đi mất thì thôi, ai ra thú thì phải về Kinh chịu tội.
     Nguyễn Thân về Kinh được thăng làm Phụ chính thay ông Nguyễn Trọng Hợp về hưu.
     3. Lòng yêu nước của người Việt Nam
     Người Việt Nam có lòng yêu nước nồng nàn nhưng vì hoàn cảnh, tình thế bắt buộc phải im hơi lặng tiếng. Cho nên cứ cách độ năm bẩy năm lại có một cuộc phiến động, sau việc Phan Đình Phùng, có việc Kỳ Đồng và việc Thiên Binh vào khoảng 1897-1898 ở vùng Thái Bình, Hải Dương, Bắc Ninh...Vào năm 1907 ở Hà Nội có việc Đông kinh Nghĩa thục. Lúc ấy có những người chí sĩ như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh, người thì không sợ tù tội, đứng lên tố cáo sự tham nhũng của bọn quan lại, người thì ra ngoại quốc bôn ba để tìm cách giải phóng đất nước. Năm 1908, ở vùng Nghệ Tĩnh và Nam Nghĩa có việc dân nổi lên kêu sưu. ở Hà Nội thì có việc đầu độc lính Pháp, rồi ở Thái Nguyên, Hoàng Hoa Thám lại nổi lên đánh phá.
     Khi châu Âu xẩy ra đại chiến I thì bên ta lại có việc đánh phá ở Sơn La và Sầm Nứa và việc vua Duy Tân mưu sự độc lập, bị bắt đầy sang ở đảo Réunion. Thế là nước Việt Nam bấy giờ có ba ông vua bị đầy: Vua Hàm Nghi đầy sang Algérie, vua Thành Thái và vua Duy Tân đầy sang ở đảo Réunion.
     Sau Thế chiến lần thứ I, lính khố xanh nổi lên đánh Thái Nguyên do Đội Cấn và ông Lương Ngọc Quyến cầm đầu. Năm 1927, ở vùng Nghệ Tĩnh có cuộc bạo động do đảng Cộng sản do Nguyễn Ái Quốc cầm đầu. Đến năm 1930, ở Bắc Việt có cuộc cách mạng của Quốc dân đảng, có Nguyễn Thái Học lãnh đạo ở Yên Bái và các nơi. Năm 1940, ở Nam Việt có cuộc bạo động ở vùng Gia Định, Hóc Môn...Từ khi có cuộc Thế chiến lần II, nước Pháp bại trận bị nước Đức chiếm cứ, quân Nhật Bản ở bên Tầu sang đánh Lạng Sơn rồi ký hiệp ước với người Pháp cho người Nhật được đóng quân ở Đông Pháp. Đến ngày mồng 9 tháng 3 năm 1945, quân Nhật đánh quân Pháp và giao quyền nội trị cho vua Bảo Đại. Được mấy tháng thì quân Đồng minh thắng trận, Nhật Bản đầu hàng. Đảng Việt Minh dưới quyền lãnh đạo của Nguyễn Ái Quốc đổi tên là Hồ Chí Minh thừa cơ cướp chính quyền, vua Bảo Đại phải thoái vị và nhường quyền cho đảng Việt Minh. 
CÔNG VIỆC CỦA NGƯỜI PHÁP TẠI VIỆT NAM 
     1. Đà Nẵng, Hà Nội, Hải Phòng thành đất nhượng-địa
     Khi việc đánh dẹp các nơi đã yên, các viên Tổng đốc toàn quyền lần lượt sang kinh doanh việc Đông Pháp và lo mở mang về chính trị, kinh tế và xã hội theo chính sách của nước Pháp. Tháng 3 năm Mậu Tí (1888) tức là năm Thành Thái nguyên niên, ông Richaud sang làm Tổng đốc toàn quyền. Tháng tám năm ấy, Triều đình Huế ký giấy nhượng hải cảng Đà Nẵng, thành phố Hà Nội và Hải Phòng cho nước Pháp để làm đất nhượng địa nghĩa là việc cai trị và pháp luật ở ba thành phố ấy thuộc về nước Pháp, chứ không thuộc về nước Nam. Trừ ba thành phố ấy ra, thì việc cai trị ở các tỉnh trong toàn hạt Bảo hộ vẫn để quan lại làm việc như cũ, nhưng phải do người Pháp điều khiển và kiểm duyệt.
     2. Việc kinh doanh ở các xứ bảo hộ
     Cuộc Bảo hộ đã lập xong, người Việt Nam thế bất đắc dĩ phải chịu, nhưng nhiều người trong lòng còn mong khôi phục nước nhà, nên chính phủ Bảo hộ một mặt lo phòng giữ, một mặt lo mở mang kiến thiết để gây thêm mối lợi. Chính phủ bảo hộ lập ra những đội binh bảo an, lấy người bản xứ làm lính gọi là lính khố xanh do người Pháp cai quản, cho đi canh giữ các dinh thự, các công sở, đi đóng đồn ở vùng thôn quê, phòng giữ trộm cướp. Những nơi hiểm yếu thì có lính Pháp và lính khố đỏ đóng. Lính khố đỏ có cơ, đội do sĩ quan Pháp cai quản. 
     Về việc hành binh và việc thương mại, thì chính phủ Bảo hộ trước hết phải lo sửa sang, mở mang thêm đường sá giao thông, có đường sá thì việc đánh dẹp và buôn bán được dễ dàng. Thoạt đầu Chính phủ mở thương cục, lập xưởng làm tầu thủy chở hàng hóa và hành khách đi đường sông. Năm Tân Mão (1891), ông De Lanessan sang làm Tổng đốc toàn quyền, mở đường xe lửa từ Phủ lạng thương lên Lạng Sơn, đến năm Giáp Ngo (1894), con đường ấy mới xong, mục đích là để phòng giữ biên giới.
     Chính phủ Bảo hộ lại lo mở mang thêm bờ cõi về phía Lào. Nguyên đất Lào ngày trước vẫn thần phục nước Nam. Những nơi như Trấn Ninh, Cam Môn, Cam Cát...về đời vua Minh Mệnh đã lập thành phủ huyện và đặt quan cai trị. Về sau nước ta suy nhược lại có việc chiến tranh với nước Pháp, nên nước Tiêm La mới nhân dịp mà sang chiến giữ. Sau có người Pháp tên là Pavie sang dự nước Lào nhận sự bảo hộ của nước Pháp, rồi đến đầu năm Quí Tị (1893), quân Pháp sang lấy lại những đất cũ thuộc về nước Nam ta trước đây. Bấy giờ quân Tiêm La ở mạn Cam Môn giết mất một người quan binh Pháp, người Pháp bèn sai hải quân đem hai chiếc tầu chiến vào sông Mê Nam, lên đậu ở gần thành Băng Cốc (Bangkok). Ngày 24 tháng 8 năm ấy, nước Tiêm La phải ký hòa ước, nhường những đất Lào cho nước Pháp bảo hộ, hạn trong một tháng phải rút quân đóng ở bên tả ngạn sông Mékong về, lại phải bồi thường 2 triệu phật lăng, và phải trị tội những người dám chống cự với người Pháp. Người Pháp lập phủ Thống sứ ở Vientiane để cai trị các địa hạt bên Lào. Năm Ất Mùi (1895), viên Tổng đốc toàn quyền Rousseau sang thay ông De Lanessan, thấy còn  nhiều nơi chưa yên bèn vay nước Pháp cho Bắc kỳ 80 triệu phập lăngn để chi tiêu về việc đánh dẹp và mở mang.
     Năm Đinh Dậu (1897), ông Daumer sang làm Tổng đốc toàn quyền, chỉnh đốn lại việc tài chánh và việc chính trị. Lập ra sổ chi thu chung cả toàn cảnh Đông Pháp, định các thứ thuế: thuế đinh, thuế điền, thuế thổ, thuế xuất cảng, nhập-cảng...và cho người được độc quyền lĩnh trưng thuế rượu, thuế muối, thuế nha phiến. Bỏ nha Kinh lược ở Bắc kỳ, giao quyền lại cho viên Thống sứ (tháng 6 năm Đinh Dậu(1897), vay nước Pháp 200 triệu phập-lăng, để mở đường hỏa xa trong xứ Đông Pháp và mở mang thêm việc canh nông và công nghệ.
     Năm Nhâm Dần (1902) ông Doumer về Pháp, ông Beau sang làm Tổng đốc toàn quyền. Ông Beau chủ việc khai hóa dân trí, lo mở mang sự học hành và đặt ra Y tế cục, xây bệnh-viện để cứu giúp những kẻ ốm đau nghèo khổ. Ấy là những công việc làm của chính phủ bảo hộ.

VUA DUY TÂN
     Vua Duy Tân sinh ngày 19/9/1900, con trai thứ 5 của vua Thành Thái và bà Nguyễn Thị Ðịnh. Vua Thành Thái rất đông con, đáng lẻ phải chọn người con trưởng kế vị, nhưng Pháp sợ Vua trưởng thành khó sai khiến nên phải tìm chọn một người càng nhỏ tuổi càng hay.
     Hôm Khâm sứ Lévecque cầm danh sách các Hoàng tử con Vua Thành Thái vào Hoàng cung chọn vua, trong lúc điểm danh thì thiếu mất « mệ Vĩnh San ». Triều đình hốt hoảng chạy đi kiếm thì thấy Vĩnh San đang chui dưới gầm giường bắt dế. Vĩnh San bị lôi ra, mặt mày lem luốt, quần áo ướt nhẹp vì mồ hôi. Không kịp đưa về nhà tắm rửa, bọn thị vệ đưa ngay Vĩnh San ra trình diện quan Pháp.
     Mới trông thấy Vĩnh San, các quan Pháp vừa ý ngay vì theo họ đứa bé mặt mày dơ tèm lem có vẻ nhút nhác và đần độn, chắc dể sai khiến sau nầy. Thế là Pháp chọn Vĩnh San làm Vua, mới 7 tuổi đầu. Triều đình thấy Vua nhỏ bèn xin tăng thêm một tuổi thành tám. Nghĩ tình Vua Thành Thái suốt đời ước nguyện đổi mới mà không làm được, nên những người phò tá còn chút quyền hành đã lấy niên hiệu cho người nối nghiệp là Duy Tân.
     Ngay sau lễ Tôn Vương một ngày (5-9-1907), vua Duy Tân đã tỏ ra khác hẳn hôm qua, Vua không hề có một cử chỉ nhúc nhát sợ Tây, ông tiếp quan toàn quyền Ðông Dương thẳng bằng tiếng Pháp. Một nhà báo Pháp đã thuật lại là « ...Một ngày lên ngai vàng đã thay đổi hoàn toàn bộ mặt của cậu bé lên tám ».
     Ðể kiểm soát vua, Pháp đã bày ra những việc sau:
     - Lập một phụ chính gồm sáu ông đại thần là Tôn Thất Hân, Nguyễn Hữu Bài, Huỳnh Côn, Miên Lịch, Lê Trinh và Cao Xuân Dục để cai trị nước Nam dưới sự điều khiển của Khâm sứ Pháp.
     - Ðưa ông Ebérhard, một tiến sĩ sinh học qua dạy cho Vua Duy Tân học khoa học (có sách nói mục đích là để theo dõi những hành động của Vua Duy Tân).
     Khoảng năm 1912, ông Mahé lên làm Khâm sứ Pháp ở Huế. Mới lên khâm sứ ít lâu ông ta đã mở một chiến dịch tìm vàng ráo riết. Mahé lấy tượng vàng đúc từ thời Nguyễn Phúc Chu (đầu thế kỷ thứ 18) trên tháp Phước Duyên chùa Thiên Mụ, đào mả lăng Vua Tự Ðức để tìm vàng và đào sới lung tung trong Ðại Nội để tìm vàng. Vua Duy Tân phản đối quyết liệt những hành động thô bạo đó, nhưng Mahé vẫn làm ngơ.
     Vua Duy Tân ngày đêm ăn ngủ không yên, ông ra lệnh đóng cửa Cung và không tiếp ai hết. Toà Khâm Sứ Pháp làm áp lực với nhà Vua thì nhà Vua đe doạ là sẽ tuyệt giao với các nhà đương cục ở Huế lúc bấy giờ. Cuối cùng Tây phải triệu toàn quyền Sarraut ở Hà Nội vào giải quyết. Gặp toàn quyền Vua Duy Tân đã vạch tội của Khâm Sứ Pháp ở Huế. Ðể xoa dịu, toàn quyền Sarraut đã khiển trách Mahé về hành động bất nhân đó. Vua Duy Tân mới hạ lệnh cho mở cửa Hoàng Thành.
     Năm Vua Duy Tân 13 tuổi, ngày lục lọi giỡ ra xem những hiệp ước mà hai nước Việt-Pháp đã ký với nhau rồi một hôm giữa triều đình, nhà Vua tỏ ý muốn cử ông Nguyễn Hữu Bài là người giỏi tiếng Pháp sang Pháp để yêu cầu duyệt lại hiệp ước ký năm 1884 (Patenôtre) vì ông cảm thấy việc thi hành của hiệp ước ấy không đúng với những điều kiện mà hai bên đã ký kết với nhau (Trung kỳ bảo trợ chứ không phải bảo hộ), nhưng cả triều đình không ai dám nhận chuyến đi đó.
     Năm 15 tuổi, Vua Duy Tân đã triệu tập cả sáu ông đại thần trong Phụ Chính, bắt buộc các vị phải ký vào biên bản để đích thân Vua sẽ cầm qua trình với toà Khâm Sứ nhưng các ông đại thần sợ Tây giận sẽ kiếm chuyện nên từ chối không ký và phải xin yết kiến bà Thái Hậu để nhờ bà can gián nhà Vua. Từ đó không những nhà Vua có ác cảm với thực dân Pháp mà còn ác cảm với Triều đình.
     Biết được vua Duy Tân là người yêu nước chống Pháp nên Việt Nam Quang Phục (do ông Trần Cao Vân cầm đầu) hội quyết định móc nối. Mùa hè năm 1915 vua ra cửa Tùng nghĩ mát, người tài xế tên Phan Hữu Khánh là người trong hội có đưa cho Vua một bức thư của 2 lảnh tụ là Trần Cao Vân và Thái Phiên. Vua đọc thư cảm động lắm và đòi gặp 2 người. Thế là ông Trần Cao Vân và ông Thái Phiên cùng vua Duy Tân mưu đồ khởi nghĩa đánh Pháp, nhưng không ngờ ngày vua xuất thành (3-5-1916) để làm cách mạng thì có người phản bội đi báo Tây, 2 ngày sau vua Duy Tân bị bắt, Pháp bắt Triều đình ta phải xử, Thượng thư bộ Học Hồ Ðắc Trung được ủy nhiệm thảo bản án. Ông Trần Cao Vân tuy bị giam trong ngục nhưng nhờ được người đưa được một mảnh giấy cho ông Hồ Ðắc Trung xin được lảnh hết tội và xin tha cho Vua. Ông Hồ Ðắc Trung làm án đổ hết tội cho 4 ông Thái Phiên, Trần Cao Vân, Tôn Thất Ðề và Nguyễn Văn Siêu. Bốn ông đều bị chém đầu còn vua Duy Tân thì bị đày đi đảo Réunion cùng với vua Thành Thái (1919).
VUA KHẢI ĐỊNH

     Khải Định có tên khai sinh là Nguyễn Phúc Bửu Đảo, sau đổi tên thành Nguyễn Phúc Tuấn , con trưởng của vua Đồng Khánh, mẹ là Dương Thị Thục. Ông sinh vào ngày 01 tháng 9 năm Ất Dậu, tức 08 tháng 10 năm 1885, tại kinh thành Huế.
     Năm 1889, Vua Đồng Khánh mất, Bửu Đảo còn nhỏ tuổi nên không được kế vị. Nǎm 1906, Bửu Đảo được phong là Phụng Hóa công. Ông là người mê cờ bạc, thường xuyên bị thua, có khi phải cầm bán cả những đồ dùng và người hầu hạ. Bửu Đảo còn bắt vợ mình là con gái của quan đại thần Trương Như Cương xin tiền bố mẹ gán nợ để đánh bạc.
     Việc Bửu Đảo lên ngôi cũng không hoàn toàn suôn sẻ. Sau khi buộc tội Hoàng đế Duy Tân, người Pháp đã có ý muốn xóa bỏ chế độ quân chủ ở Việt Nam nhưng các triều thần, đặc biệt là Thượng thư Nguyễn Hữu Bài không chịu nên Pháp phải chiều theo ý.
     Ngày 18 tháng 5 năm 1916, Bửu Đảo lên ngôi lấy niên hiệu là Khải Định.
     Dưới thời Khải Định, triều đình Huế không có xích mích với Pháp. Mọi việc đều do Tòa Khâm sứ định đoạt. Khải Định cũng kết thân với Khâm sứ Trung kỳ Jean fracois Eugene Charles và gửi gắm con mình là Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy cho vợ chồng Khâm sứ.
     Ngày 20 tháng 5 năm 1922, Khải Định sang Pháp dự Hội chợ thuộc địa ở Marseille. Đây là lần đầu tiên một vị vua triều Nguyễn ra nước ngoài. Chuyến đi công du của Khải Định đã làm dấy lên nhiều hoạt động của người Việt Nam yêu nước nhằm phản đối ông. Phan Chu Trinh đã gửi một bức thư dài trách Khải Định 7 tội, thường gọi là Thư thất điều hay Thất điều trần. Trong bức thư đó Phan Chu Trinh chỉ gọi là Bửu Đảo chứ không gọi vua Khải Định và trách Khải Định tội "ăn mặc lố lăng". Tại Pháp, trên tờ báo Người cùng khổ, Nguyễn Ái Quốc có một loạt bài chế giễu Khải Định trong đó có truyện ngắn "Vi hành" và còn viết vở kịch Con rồng tre, diễn ở ngoại ô Paris.
     Tháng 9 năm 1924, từ Pháp về, Khải Định tổ chức lễ tứ tuần đại khánh rất lớn và tốn kém, bắt nhân dân khắp nơi gửi quà mừng. Sau lễ mừng thọ, ngân sách Nam triều kiệt quệ, Khải Định cho tǎng thêm 30% thuế điền.
     Khải Định cũng không được lòng dân chúng. Ở Huế nhân dân đã truyền tụng câu ca dao phổ biến về Khải Định:
     Khải Định có xây cất nhiều công trình, trong đó nổi tiếng nhất chính là lăng của ông. Lăng Khải Định khác hẳn các lǎng tẩm xưa nay và đã trở thành vấn đề thảo luận của nhiều người, cả dư luận chung và trong giới chuyên môn kiến trúc. Nhiều người chê lăng Khải Định có kiến trúc lai căng, nhưng lại có ý kiến cho là độc đáo và khác lạ.
     Khải Định ở ngôi được 10 năm thì bị bệnh nặng và mất vào ngày 20 tháng 9 năm Ất Sửu tức 06 tháng 11 năm 1925, thọ 40 tuổi. Lăng của vua Khải Định hiệu Ứng Lăng, tại làng Châu Chữ, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên - Huế

VUA BẢO ĐẠI

     Bảo Đại,tên khai sinh: Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy, sinh ngày 22/10/1913- 31/7/1997 là vị Vua thứ 13 và   cuối cùng của Triều đại nhà Nguyễn. Nguyễn Phúc Vĩnh Thụy sinh tại Kinh thành Huế, là người con trai duy nhất của vua Khải Định, mẹ là Hoàng Thị Cúc. Ngày 28 tháng 4 năm 1922, khi được 9 tuổi, ông được xác lập làm Đông cung Hoàng Thái tử. Ngày 15 tháng 6 năm 1922, ông cùng Khải Định lần đầu sang Pháp để thưởng ngoạn cuộc triển lãm hàng hóa tại Marseille, Pháp. Tháng 6 năm 1922, Vĩnh Thụy được vợ chồng cựu Khâm sứ Trung kì là Jean Francoi Eugene Charles nhận làm con nuôi và học ở trường Lycee Condorcet rồi sau ở trường Sciences Po (École libre des sciences politiques), Paris. Tháng 2 năm 1924, ông về nước để dự Lễ tứ tuần đại khánh của Khải Định, đến tháng 11 trở lại nước Pháp để tiếp tục học. Ngày 06 tháng 11 năm 1925, Khải Định mất, Vĩnh Thụy về nước thọ tang. Ngày 08 tháng 01, khi mới 12 tuổi, Vĩnh Thụy được tôn lên kế vị làm Hoàng đế kế nhiệm, ông lấy niên hiệu Bảo Đại. Tháng 3 cùng năm, Bảo Đại trở lại Pháp để tiếp tục học tập. Từ niên khóa 1930, Bảo Đại theo học trường Khoa học chính trị (Sciences Po). Sau 10 năm đào tạo ở Pháp, ngày 16 tháng 8 năm 1932, Bảo Đại về nước.
     Ngày 08 tháng 4, năm 1932, Bảo Đại đã ban hành một đạo dụ cải tổ nội các, thành lập Viện dân biểu; quyết định tự mình chấp chính và sắc phong thêm 5 thượng thư mới xuất thân từ giới học giả và hành chính là Phạm Quỳnh, Thái Văn Toản, Hồ Đắc Khải, Ngô Đình Diệm và Bùi Bằng Đoàn nhằm thay thế các thượng thư già yếu hoặc kém năng lực Nguyễn Hữu Bài, Tôn Thất Đàn, Phạm liệu, Võ Liêm, Vương Tứ Đại.
     Ngày 20 tháng 3 năm 1934, Bảo Đại làm đám cưới với Marie Thérèse Nguyễn Hữu Thị Lan và tấn phong bà làm Nam Phương Hoàng hậu.
     Ngày 07 tháng 4 năm 1945, Bảo Đại đã ký đạo dụ số 5 chuẩn y thành phần nội các Trần Trọng kim và ngày 12 tháng 5 giải thể Viện Dân biểu Trung Kỳ. Tháng 6 năm 1945, chính phủ Trần Trọng Kim đặt quốc hiệu là Đế quốc Việt Nam. Năm 1945, Cách mạng tháng Tám thành công. Tại các địa phương trên cả nước, Việt Minh buộc chính quyền Đế quốc Việt Nam giao quyền lực cho họ. Trước tình thế đó, Bảo Đại quyết định thoái vị. Bảo Đại không rõ phải liên lạc với ai ở Hà Nội, nên gửi một điện tín tới "Ủy ban Nhân dân Cứu quốc" ở Hà Nội:
     Sáng ngày 23 tháng 8, hai phái viên của Việt Minh là Trần Huy Liệu và Cù huy Cận đến cung điện Huế. Theo lời yêu cầu của hai ông này, chiều ngày 25 tháng 8, 1945, Bảo Đại đã đọc Tuyên ngôn Thoái vị trước hàng ngàn người tụ họp trước cửa Ngọ Môn và sau đó trao ấn tín, quốc bảo của hoàng triều cho ông Trần Huy Liệu. Ông trở thành "công dân Vĩnh Thụy". Trong bản Tuyên ngôn Thoái vị, ông có câu nói nổi tiếng "Trẫm muốn được làm dân một nước tự do, hơn làm Vua một nước nô lệ".
     Tháng 9 năm 1945, Vĩnh Thụy được Chủ tịch Hồ Chí Minh mời ra Hà Nội nhận chức "Cố vấn tối cao Chính phủ Lâm thời Việt Nam", ông là một trong 7 thành viên của Ủy ban dự thảo Hiến pháp do Hồ Chí Minh đứng đầu. Ngày 06 tháng 01 năm 1946, Vĩnh Thụy được bầu làm Đại biểu Quốc hội khóa đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
     Ngày 16 tháng 3 năm 1946, Vĩnh Thụy tham gia phái đoàn Việt Nam Dân chủ Cộng hòa sang Trùng Khánh thăm viếng Trung Hoa, nhưng ông không trở về nước, mà về Côn Minh rồi Hương Cảng. Tại Côn Minh, ông đã tiếp xúc với nhiều giới chính trị, trong đó có người Mỹ. Đại tướng George Marshall, đại diện Hoa Kỳ, đã đem bản giao ước với Bảo Đại về trình Tổng thống Harry S. Truman. Bảo Đại bèn viết thư về nước xin từ chức "Cố vấn tối cao" trong chính phủ Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
     Ngày 11 tháng 1 năm 1954, Chính phủ mới do Bửu Lộc thành lập trình diện Bảo Đại nhưng đến ngày 16 tháng 6 năm 1954, Bửu Lộc từ chức. Quốc trưởng Bảo Đại mời Ngô Đình Diệm về nước, ngày 6 tháng 7, Ngô Đình Diệm thành lập chính phủ mới. Sau Hiệp định Geneve 1954, Pháp phải rút khỏi Đông Dương, chính quyền và quân đội Quốc gia Việt Nam tập kết ở miền Nam Việt Nam chờ tổng tuyển cử để thống nhất Việt Nam. Ngô Đình Diệm tiến hành cải tổ chính phủ lần thứ nhất vào ngày 24 tháng 9 năm 1954 và lần thứ hai vào ngày 10 tháng 5 năm 1955. Tháng 9 năm 1954, tướng Nguyễn Văn Hinh không chịu dưới quyền chỉ huy của Ngô Đình Diệm nên đánh điện sang Pháp nhờ Bảo Đại can thiệp. Bảo Đại điện về Sài Gòn triệu tập Diệm sang Cannes gặp Bảo Đại để bàn lại việc sắp xếp nhân sự nhưng Diệm không đi. Bảo Đại quyết định điện về Sài Gòn cách chức thủ tướng của Ngô Đình Diệm.
     Ông sống tại Cannes, sau đó chuyển đến vùng Alsace. Bảo Đại giao du với Jean de Beaumont, cựu nghị sĩ Nam Kỳ, một tay săn bắn có hạng. Bị cơ quan thuế để mắt tới, không còn tiền tài trợ của chính phủ Pháp, ông phải bán dần tài sản của mình. Năm 1963, Nam Phương hoàng hậu qua đời ở Chabrignac. Năm 1972, khi đã tiêu pha hết cả tài sản, Bảo Đại sống với Monique Baudot, một phụ nữ Pháp kém Bảo Đại hơn 30 tuổi (Monique Baudot sinh năm 1946), đến năm 1982 thì kết hôn. Bảo Đại nhập đạo Công giáo lấy tên thánh là Jean-Robert. Cựu hoàng Bảo Đại là vị vua thọ nhất nhà Nguyễn. Ông qua đời vào 5 giờ sáng ngày 31 tháng 7 năm 1997 tại Quân y viện Val de Grace, hưởng thọ 85 tuổi.
     Gia quyến
Tổ phụ: Cảnh Tông Thuần Hoàng đế Nguyễn Phúc Ưng Kỷ. Tổ mẫu: Hựu Thiên Thuần Hoàng hậu Dương thị, được tôn phong Khôn Nghi Xương Đức Thái hoàng thái hậu, còn gọi là Đức Tiên Cung. Khi Bảo Đại còn bé đều do bà nuôi dưỡng. Cha: Hoằng Tông Tuyên Hoàng đế Nguyễn Phúc Bửu Đảo. Mẹ: Đoan Huy Hoàng Thái hậu Hoàng thị, còn gọi là Đức Từ Cung. Bà vốn là Cung nhân, xuất thân thấp kém, sau mang thai Bảo Đại mà được tấn phong Huệ phi.
Hậu phi:
  1. Nam Phương Hoàng hậu Nguyễn Hữu Thị Lan, con gái của Nguyễn Hữu Hào và phu nhân Lê Thị Bính, con gái của Lê Phát Đạt. Quê Gò Công, Tiền Giang, có hôn thú, có 5 người con
  2. Bùi Mộng Điệp, quê Bắc Ninh, không hôn thú, có 3 người con.
  3. Ánh phi Lê thị ở Huế, không hôn thú, có 2 người con, được phong làm Ánh phi vào năm 1935. Về sau đều gọi bà là Lê Phi Ánh.
  4. Lý Lệ Hà, quê Thái Bình, vũ nữ, không hôn thú, không có con
  5. Hoàng Tiểu Lan, còn tên khác là Jenny Woong, vũ nữ Trung Hoa lai Pháp, không hôn thú, có 1 con gái, sau này cũng có đưa về Đà Lạt, cũng có một biệt thự như các bà thứ phi người Việt.
  6. Bà Viky (Pháp), không hôn thú, có 1 con gái.
  7. Clement (?), vũ nữ và buôn lậu ở xóm Cigalle (Pháp), không hôn thú
  8. Monique Marie Eugene Baudot, người Pháp, sinh tại Lorraine. Năm 1972, bà kết hôn với Bảo Đại Đế, được xưng danh Hoàng phi; Imperial Princess). Sau khi Bảo Đại Đế băng hà, bà tự xưng làm Thái Phương hoàng hậu.
  • Hậu duệ: Bảo Đại có 5 hoàng tử và 7 hoàng nữ, tổng cộng 12 người con.
  1. Nguyễn Phúc Bảo Long, 1936- 2007. Mẹ là Nam Phương hoàng hậu.
  2. Nguyễn Phúc Bảo Thắng, 1943. Mẹ là Nam Phương hoàng hậu.
  3. Nguyễn Phúc Bảo Ân, sinh năm 1951 đang sống tại Westminster, là người con nối dõi nhà Nguyễn. Ông Bảo Ân có hai con, gái là Nguyễn Phúc Thụy Sĩ, sinh năm 1976 và trai là Nguyễn Phúc Quý Khang sinh năm 1977. Như vậy, Nguyễn Phúc Quý Khang là cháu đức tôn của Cựu Hoàng Bảo Ðại. Mẹ là Lê Phi Ánh.
  4. Nguyễn Phúc Bảo Hoàng, (1954- 1955), chết khi một tuổi. Mẹ là Bùi Mộng Điệp.
  5. Nguyễn Phúc Bảo Sơn,(1957- 1987), chết khi 30 tuổi vì tử nạn tại Nhật. Mẹ là Bùi Mộng Điệp.
    • Hoàng nữ:
  1. Nguyễn Phúc Phương Mai, sinh 1937 tại Đà Lạt.
  2. Nguyễn Phúc Phương Liên, sinh năm 1938. Mẹ là Nam Phương hoàng hậu.
  3. Nguyễn Phúc Phương Dung, sinh năm 1942. Mẹ là Nam Phương hoàng hậu.
  4. Nguyễn Phúc Phương Thảo, sinh 1946 hiện nay đang sống ở Pháp. Mẹ là Bùi Mộng Điệp.
  5. Nguyễn Phúc Phương Minh, sinh 1949, bà lấy chồng và lập nghiệp ở Pháp, rồi ly dị, trước năm 1975 về Sài Gòn thăm mẹ và bị kẹt lại đây, sau đó được bảo lãnh sang Hoa Kỳ lập nghiệp và qua đời tại Hoa Kỳ vào năm 2012. Mẹ là Lê Phi Ánh.
  6. Nguyễn Phúc Phương An sinh năm 1955, hiện nay đang sống ở Hawai, Hoa Kỳ. Mẹ là Hoàng Tiểu Lan.
  7. Nguyễn Phúc Phương Từ, sinh năm 1955, hiện đang sống ở Pháp. Mẹ là Quý bà Vicky.
     Bảo Đại còn có một người con do bà Từ Cung Hoàng thái hậu nuôi từ nhỏ, nhưng không rõ là con bà nào do ông không tiết lộ.
    

0 nhận xét :

Đăng nhận xét


IconIconIconIconFollow Me on Pinterest